Archives

“Kinh Nhật Tụng Sơ Thời”  khi Phật còn tại thế – Đào Văn Bình



 

Kinh Nhật Tụng Sơ Thời là kho báu của Phật Giáo và nên trở thành Kinh Nhật Tụng Đương Thời mà tất cả những ai mong muốn viên thành Phật quả cần phải đọc tụng mỗi ngày.

Cư sĩ Nguyên Giác vừa cho xuất bản cuốn Kinh Nhật Tụng Sơ Thời mà theo sự nghiên cứu của các học giả đây là những lời dạy (kinh ) cổ xưa nhất của Đức Phật được các đệ tử ghi lại bằng thơ và học thuộc lòng vì lúc đó chưa có chữ viết. Theo Thư Viện Hoa Sen, căn cứ vào các nguồn sử liệu Tích Lan, thì những lời dạy của Ngài được viết thành văn vào khoảng thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch để hình thành kinh điển Pali. Tác giả dẫn chứng kinh điển này có thực khi “Trong Kinh Sona Sutta (Kinh Ud 5.6), có nói về Kinh Nhật Tụng 16 Chương mà ngài Sona đọc, khi được Đức Phật yêu cầu đọc Phật Pháp, trích dịch:

“Đức Thế Tôn mời Thượng tọa Maha Sona, và nói, “Tỳ khưu, tôi muốn ông đọc lên Chánh Pháp. Xin vâng lời, Thượng tọa Maha Sona đọc toàn bộ 16 chương Atthaka Vagga.” Bản Anh dịch Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya Chương 005.
Mahāyaññavaggo, Kinh 5.10 Nandamātāsuttaṃ) của Ni Trưởng Sister Upalavanna cũng có một kinh ghi rằng nữ cư sĩ Velukantaki Nanda mỗi rạng sáng đều tụng đọc lớn tiếng nhóm 16 kinh trong Phẩm Qua Bờ Bên Kia
.”

Sách dịch toàn bộ Phẩm Tám (Atthaka Vagga) và Phẩm Qua Bờ Kia (Parayanavagga) từ các bản dịch tiếng Anh từ Tạng Pali, với tham khảo từ bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu, cộng thêm phần chú giải riêng của tác giả. Phẩm Qua Bờ Kia nơi đây dịch từ các bản Anh dịch của quý ngài Laurence Khantipalo Mills (di cảo, do Bhikkhu Sujato hiệu đính), Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Anandajoti, Thanissaro Bhikkhu, V. Fausboll, John D. Ireland. Tác giả đã phải đối chiếu sáu (6) bản dịch tiếng Anh để cân nhắc từng câu, từng chữ của lời kinh.Theo tác giả, tất cả các bản tiếng Anh đều có trên mạng lưới toàn cầu, chỉ trừ hai bản trên sách in là của Bhikkhu Bodhi (The Suttanipata) và Gil Fronsdal (The Buddha before Buddhism). Chúng ta thử tìm hiểu xem trong Phẩm Tám và Phẩm Qua Bờ Kia, Đức Phật dạy những gì.

A- Phẩm Tám (Parayanavagga)

1) Kinh về Tham Dục

Kinh này gồm các bài kệ từ 766 tới 771.

766. Khi ước muốn tham dục đạt được, người đó sẽ hoan lạc vì có điều ước muốn.

767. Với người tham dục đó, khi hoan lạc tan biến sẽ đau khổ như bị mũi tên xuyên trúng.

Khỏi cần bàn luận sâu xa, chúng ta thấy ngay Tham-Dục tạo đau khổ như thế nào.

2) Kinh về Thân Giam Trong Hang Động

Kinh này nói về chúng sinh bị giam trong hang động (trói buộc) của si-mê, tham-dục. Hầu hết các dịch giả đều dịch là “hang,” trong khi Gil Fronsdal dịch là “nơi ẩn núp” (hiding place).

-Người vương vào ước muốn, bị buộc vào niềm vui của hiện hữu sẽ không giải thoát nổi, vì không ai cứu được mình.

-Người nuối tiếc quá khứ, hay mong đợi tương lai, người ưa tìm hoan lạc dù đã qua hay sẽ tới, bám chặt vào tham dục, lo săn tìm niềm vui trong mê mờ và ích kỷ tằn tiện là đã rơi vào lối gian nan. Khi gặp khổ đau, mới than thở: Mình sẽ là gì khi mãn kiếp này.

Cứ theo như lời dạy thì Tham-Dục giống như ma túy. Khi chích, hút, ngửi vào thì đê mê. Nhưng khi giã thuốc thì rã rời. Nhưng rồi lại tiếp tục lao vào như xác không hồn, gỡ không ra.

3) Kinh về Tà Kiến

Tác giả tóm lược ý kinh: “Tâm vắng lặng, lìa tranh cãi, không thấy tự ngã nào để khoe, lìa mọi quan kiến/giáo thuyết dù Có hay Không…

Kinh này gồm các bài kệ từ 780 tới 787.” Chúng ta thử trích ra vài câu kệ:

– 780. Một số người tranh cãi với tâm bất thiện, một số người tranh cãi với tâm hướng về sự thật. Bậc hiền giả không tham dự các cuộc tranh cãi khởi lên, và do vậy, dù đi bất cứ nơi nào cũng không bận tâm.

-781. Làm sao một người có thể vượt qua định kiến riêng của họ khi bị tâm tham dẫn đi, gắn chặt vào điều họ ưa thích rồi dẫn tới kết luận riêng của họ. Chỉ nên, biết gì thì nói nấy.

– 783. Người trí nói một tu sĩ cao thượng là khi sống bình an, tâm hoàn toàn vắng lặng không khoe gì rằng tôi giỏi thế này thế kia đi đâu trong cõi (đời) này cũng không thấy có tự ngã.

4) Kinh về Thanh Tịnh:

“Niềm tin Ấn Độ cổ thời là, sự trong sạch có thể đạt được khi một người nhìn thấy, gặp gỡ hay thân cận một người trong sạch.

Tương tự, họ tin rằng nghi lễ tôn giáo cũng có thể giúp họ trong sạch. Nghĩa là, tin sự thanh tịnh hay sức mạnh tâm linh có thể truyền trao qua việc thân cận hay nghi lễ. Đức Phật nói rằng không hề có chuyện thanh tịnh hóa đạt được bằng thế giới ngoại xứ (thế giới bên ngoài).”

-788. [Bà la môn nói:] Nơi đây, tôi thấy một người thanh tịnh, bậc Thượng nhân, người xa lìa tất cả bệnh. Tôi sẽ được thanh tịnh hóa nhờ những gì được thấy.

[Đức Phật:] Được thuyết phục như thế và rồi xem đó là cao nhất người ta rơi vào lưới kiến thức đó trong khi trầm tư về sự thanh tịnh.

-789. Nếu người ta được thanh tịnh hóa nhờ những gì được thấy hay nếu có ai tin sẽ thoát khổ nhờ kiến thức nghĩa là họ nghĩ sẽ được thanh tịnh hóa nhờ cái gì khác. Sẽ sai lầm khi nghĩ như thế, khi tin như thế.

-790 Một người phạm hạnh không nói rằng thanh tịnh sẽ có vì dựa vào gì khác, hay vì dựa vào thấy nghe chạm xúc hay vì dựa vào giới luật hay nghi lễ tôn giáo Thiện và Ác không còn dính mắc gì nữa với người đã buông bỏ hết, không còn tạo tác gì. Lời dạy cho thấy chính chúng ta phải tạo sự thanh tịnh. Không nương tựa vào bất cứ cái gì dù là nghi thức cúng tế, giống như “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của Kinh Kim Cang. Khi không vướng mắc hoặc nương tựa vào đâu, dù đúng dù sai, dù phải dù trái, dù thần dù thánh….thì sẽ đạt tới thanh tịnh.

5) Kinh về Tối Thượng

“Kinh này nói rằng những ai tự cho mình đã có được tầm cao nhất của cái nhìn (một tri kiến, một quan kiến, một lập trường, một giải thích [về vũ trụ và con người…) và cho là thấp kém tất cả các quan kiến khác – người đó còn rơi vào tranh cãi, còn thấy có “tôi” (ngã) và “của tôi” (ngã sở), còn nắm giữ những gì được thấy nghe hay biết.”

– 796. Nếu có ai chọn một cái nhìn [quan kiến, quan điểm] nào, cho rằng cái nhìn đó là tối thượng trên thế giới và nói rằng tất cả cái nhìn khác là thấp kém – như thế, người đó chưa thoát khỏi tranh cãi.

6) Kinh về Tuổi Già

Kinh này gồm các bài kệ từ 804 tới 813.-804. Đời sống này thực sự ngắn ngủi – chưa tới 100 năm, ngươi sẽ chết và nếu sống thọ hơn, ngươi lúc đó sẽ chết vì tuổi già.

805. Người ta sầu khổ vì những cái “của tôi” – không tài sản nào là thường còn. Vì thấy những ly tan, không gì là “của tôi” ngươi chớ nên sống đời thế tục.

-806. Tất cả những gì người ta nhận là “của tôi” đều bị rời bỏ trong cái chết. Biết như thế, người trí không nên sống ích kỷ với những gì cho là “của tôi.”

7) Kinh dạy Tissa Metteyya “Trong kinh này, ngài Tissa Metteyya hỏi Đức Phật về nguy hiểm của tình dục. Đức Phật nói rằng hạnh cao quý là sống đời độc thân, tự rèn luyện trong cô tịch. Nhưng cũng chớ bao giờ tự xem mình hơn người, dù đã xa lìa ái dục, dù đã vào được bậc cao quý.”

8) Kinh Pasura: Chớ Tranh Cãi

“Kinh này là lời Đức Phật nói với Pasura, một du sĩ nổi tiếng về biện luận đã tới tìm gặp Đức Phật để tranh luận về giáo thuyết. Đức Phật chỉ trích thói quen tranh cãi, biện luận, kiểu tự cho giáo thuyết mình là tối thắng và xem thường pháp của người khác. Thêm nữa, Đức Phật nói rằng Ngài là bậc Thuần Tịnh, không nắm giữ một quan điểm (quan kiến, lập trường, giáo thuyết) nào như là tối thượng, và do vậy không thấy có gì để tranh cãi.”

828. Khởi lên tranh cãi giữa các du sĩ sẽ gây ra cả vui thắng, buồn thua. Do vậy, chớ nên tham dự tranh cãi không lợi ích gì trong các lời khen.

-829. Khi được khen giữa hội chúng vì đưa ra lý thuyết lôi cuốn họ vui cười, tăng thêm kiêu mạn vì đạt được như ước vọng.

9) Kinh về Không Giữ Quan Điểm Nào. Tóm lược ý kinh: Lìa ái dục, bỏ tranh cãi. Không nắm giữ một pháp nào. Y hệt như người lên tới đầu sào trăm trượng và bước thêm một bước vào chỗ không gì nương tựa. Kinh này gồm các bài kệ từ 835 tới 847.

839. (Đức Phật nói với Magandiya) Ta nói rằng thanh tịnh không thể tới từ quan điểm, học hỏi, kiến thức, giới luật, và nghi lễ tôn giáo; cũng không thể tới từ thiếu vắng quan điểm, học hỏi, kiến thức, giới luật, và nghi lễ tôn giáo. Nhưng chỉ là khi buông xả hết, khi không nắm giữ gì hết, thì sẽ bình an (không dựa vào đâu), không còn muốn sanh hữu nữa.

10) Kinh Trước Khi Thân Tan Rã Duyên khởi /nguyên do của kinh là do Đức Phật nhận thấy một số chư thiên trong hội chúng khởi tâm thắc mắc, “Nên làm gì trước khi thân này tan rã?” Đức Phật mới dùng thần thông tạo ra hình ảnh một vị Phật đi cùng với 1,250 tỳ khưu tụ hội trên không trung, và Đức Phật Thích Ca dùng thần thông để vị Phật (trên không, do thần thông tạo ra) đặt câu hỏi để Ngài nói bài kinh này.

Nói thân tan rã, là nói về sự chết hay khi hấp hối. Kinh khởi đầu với một người hỏi Đức Phật rằng phải nhìn thấy gì (kiến) và giữ giới (sila) như thế nào để được bình an – người bình an còn gọi là người tối thắng.

– 849. Người đã không còn tham ái trước khi thân tan rã, không dựa vào những gì trong quá khứ không toan tính tư lường trong hiện tại cũng không ước muốn gì ở tương lai.

-861. Không lấy gì trên đời làm của mình, không buồn vì những gì mình không có, không dính gì tới bất kỳ giáo thuyết nào người đó thực sự được gọi là Bình An.

Cứ y theo lời Phật dạy, một người sắp chết mà còn nuối tiếc, dặn dò thân nhân, con cháu làm chuyện này chuyện kia… thì không thể có bình an. Nếu niệm Phật được trước khi chết cũng có thể giúp chúng ta bình an.

11) Kinh Cội Nguồn Tranh Cãi

-862. (Câu hỏi) Từ đâu khởi lên các thứ gây gỗ, tranh cãi tuyệt vọng, nỗi buồn, ích kỷ, tự hào kiêu mạn, và lời nói xấu? Từ đâu chúng khởi lên, xin trả lời với.

-863 (Đức Phật) Từ những gì được ưa thích sẽ hiện ra gây gỗ, tranh cãi tuyệt vọng, nỗi buồn, ích kỷ, tự hào kiêu mạn, và lời nói xấu. Gây gỗ và tranh cãi nối kết với ích kỷ. Lời nói xấu hiện ra, khi tranh cãi khởi dậy.

– 877 Biết rằng những pháp đó đều do duyên khởi người trí sẽ khảo sát luật duyên khởi. Ngộ xong, người giải thoát không tham dự tranh cãi. Người trí không còn dính gì nữa với hữu/vô, sinh/diệt.

Tác giả nhận xét rằng trong kinh này có chữ “danh” và “sắc” trong đó “danh” là dịch từ chữ “nama” tức là vận hành của tâm; và chữ “sắc” là dịch từ chữ “rupa”. Hầu hết dịch giả dịch chữ “sắc” là “form” hay “appearance”. Danh và sắc có khi còn được dịch là tâm và thân. Tuy nhiên, chữ thân không riêng chỉ cơ thể người. Vì sắc được hiểu là đối tượng của tâm, tức là: cái được thấy, cái được nghe… cái được suy nghĩ tư lường.

12) Tiểu Kinh Về Tranh Cãi “Những gì được thấy, những gì được nghe, những gì được cảm thọ… chỉ là bức màn của Niệm hiện lên trong tâm. Hãy lẳng lặng để các pháp hiển lộ Như Thị, để cái được thấy chỉ là cái được thấy, để cái được nghe chỉ là cái được nghe… Lúc đó là thanh tịnh. Lời dạy trong kinh y hệt như Thiền Tông, qua các câu đầu trong Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán, bản dịch của Trúc Thiên:

Đạo lớn chẳng gì khó
Cốt đừng chọn lựa thôi
Quí hồ không thương ghét
Thì tự nhiên sáng ngời

-880. (Đức Phật) Nếu nói, ai không đồng ý giáo thuyết kẻ khác là trở thành kẻ khờ, là bất toàn trí tuệ thì tất cả đều khờ, đều bất toàn trí tuệ vì tất cả đều bám quan kiến riêng của họ.

-881. (Đức Phật) Nhưng nếu, tất cả họ đều tịnh hóa vì quan kiến đó và nếu họ đều có thông minh, khéo léo, tuệ thanh tịnh thì không ai trong họ có tuệ bất toàn vì quan kiến của họ là toàn hảo.

13) Đại Kinh Về Tranh Cãi

Tóm lược ý kinh: Giữ tâm vô sở trụ. Không thấy một pháp nào để nắm giữ. Kinh này gồm các bài kệ từ 895 tới 914.-895. (Câu hỏi) Với những người cứ nắm giữ quan kiến riêng của họ cãi mãi, “Chỉ thế này mới đúng!” tất cả họ đáng bị chỉ trích hay vài người trong họ còn đáng khen?

-896. (Đức Phật) Lời khen là chuyện nhỏ, không đủ để bình an. Ta nói có hai kết quả của tranh cãi. Thấy thế, không nên tranh cãi làm gì Thấy rằng an toàn là nơi không tranh cãi.

-897. Với các ý kiến người ta thường chấp giữ, người trí không nên dính vào ý nào trong đó. Với người không dính mắc vào cái được thấy và nghe sao lại phải dính mắc vào [các ý tranh cãi]?

– 907. Bậc Phạm hạnh không bước theo ai hết với trí tuệ, không nắm giữ giáo thuyết nào Do vậy, họ vượt xa khỏi các tranh cãi Và vì không xem giáo thuyết nào là tối thắng.

Lời Phật dạy thật chí lý. Làm sao chúng ta có thể tranh cãi với những người cho rằng thần linh mà họ đang tôn thờ là tối thượng và tối linh thiêng, giáo lý của họ là chân lý và đạo của họ là thánh thiện còn các đạo khác chỉ là tà giáo. Cách hay nhất là chúng ta im lặng. Nếu cần phải nói thì chỉ nói cái khác biệt của chúng ta đối với tôn giáo của họ và từ chối phần tranh luận hơn-thua, đúng-sai.

14) Kinh Lối Đi Nhanh Chóng

Trong kinh này Đức Phật dạy các pháp tu để nhanh chóng giải thoát, rất tỉ mỉ mà tôi chỉ có thể trích dẫn một vài đoạn:

-921. (Câu hỏi) Ngài là bậc đã mở tuệ nhãn, ngài là Người Chứng Của Pháp, đã xóa bờ hiểm nguy. Xin ngài dạy cho tôi về pháp thực hành về giới luật phải giữ, và về thiền tập.

-922. (Đức Phật) Chớ để mắt ngó linh tinh chớ để tai nghe chuyện tầm phào chớ khởi tâm thèm muốn ăn ngon và chớ nghĩ về bất cứ gì trong thế giới là “của tôi.”

-923. Khi chạm xúc [gặp chuyện sầu muộn] người tu chớ nên thấy gì để thở than cũng chớ nên muốn cảnh tái sinh nào cũng đừng run sợ trước cảnh kinh hoàng.

-924. Người tu chớ nên lưu trữ những gì nhận được dù là thức ăn, thức uống, trang phục cũng chớ lo ngại khi không nhận được gì.

-925 Hãy thiền định, chớ đi lại nhiều Hãy tinh tấn, chớ nuối tiếc gì Tu sĩ hãy tìm cư trú nơi vắng lặng để luân chuyển ngồi thiền và nằm ngủ.

-926. Đừng nên ngủ nhiều. Hãy nồng nhiệt, chuyên tâm trong tỉnh thức Chớ lười biếng, giả hình, cười cợt, cờ bạc chớ tình dục, chớ hình thức cá nhân.

927. Môn đệ của ta sẽ không ếm bùa chú không giải mộng, không chiêm tinh không đoán lành dữ từ tiếng thú kêu không làm phép chữa bệnh, hay trị vô sinh.

-928 Vị tu sĩ không bứt rứt khi bị chê không hể hả khi được khen. Phải lìa tâm tham, tâm keo kiệt lìa tâm sân, không nói lời tổn thương.

-929. Người tu sĩ không mua bán gì không làm gì để bị chỉ trích không la cà thân cận trong xóm cư dân không nói lời chiêu dụ để kiếm chác.

-930. Bậc tu sĩ sẽ không khoe khoang không nói lời với ám chỉ xấu không khởi chút nào tâm kiêu căng không nói ra lời tranh cãi nào.

-931. Không nói trả đũa dù lời sai trái cũng không cố ý nói lời lừa dối ai. Không xem thường bất kỳ ai vì dị biệt về nếp sống, giới luật, hành trì, trí tuệ.

– 932. Ngay cả khi bị nhiều lời tấn công lời chê bai từ giới ẩn sĩ hay đời thường, cũng đừng trả lời gay gắt bởi vì người tịch lặng không thấy gì để trả đũa.

15) Kinh Về Bạo Lực

Đức Phật dạy:

-943. Chớ để bị lôi kéo vào lời sai trái

Chớ ưa thích ngoại hình sắc tướngHãy hiểu tận tường ngã chấp

Xa lìa tranh cãi, xô xát, bạo lực.Nhìn vào thế giới ngày hôm nay, bạo lực lan tràn là vì chấp vào đúng-sai, quan niệm của tôi đúng, anh sai. Chấp vào ngoại hình, sắc tướng như: Cách thờ phượng, cách ăn mặc, để râu tóc, khăn trùm đầu kín mặt mà mình cố chấp và cho đó là biểu tượng linh thiêng. Và sau cùng là do chấp Ngã, tức cho rằng thực có “cái tôi”. Từ “cái tôi” mà đẻ ra “cái của tôi”. Đụng vào “cái của tôi” dù “cái của tôi” đó ở trên Cung Trăng, chắc chắn phải đổ máu. Đó là nguyên do của bạo lực.

16) Kinh Về Sariputta (Xá Lợi Phất)

-963. Đức Phật: Ta sẽ nói cho ngươi, Xá Lợi Phất, ngươi đã biết [Pháp] về những gì thoải mái với người đã ly dục người thường tới nơi cô tịch người ước muốn Giác Ngộ theo Chánh Pháp.

-964 Vị sư tỉnh thức, trí tuệ, sống cô tịch không nên có năm nỗi sợ: ruồi nhặng, muỗi mòng, rắn gặp gỡ người khác, loài thú bốn chân.

-965 Cũng chớ nên sợ tín đồ giáo pháp khác kể cả khi người dị giáo kia làm điều kinh sợ. Thêm nữa, người đi tìm thiện lành nên vượt qua tất cả các hiểm nguy khác – 966. Kham nhẫn cả khi bệnh, đói và khát chịu đựng cả khi trời trở lạnh, cực nóng.

Người tu sĩ không nhà chớ dao động hãy tinh tấn, ra sức tu học.

B-Phẩm Qua Bờ Bên Kia (Đáo Bỉ Ngạn)

“Phẩm Qua Bờ Bên Kia gồm 16 kinh, mỗi kinh ghi lại những lời đối thoại của 16 giáo sĩ Bà La Môn với Đức Phật. Nhóm 16 vị này là học trò của đạo sĩ Bavari. Sau các câu đối thoại, 15 vị đầu tiên tức khắc vào thánh vị A La Hán. Các bộ chú giải đời sau nói dị biệt về giáo sĩ thứ 16. Vị này tên Pingiya. Có chú giải nói rằng ngài Pingiya sau khi đối thoại với Đức Phật (Kinh Sn 5.16) vào thánh vị Sơ Quả (Nhập Lưu), có chú giải khác nói rằng ngài Pingiya đắc thánh vị Tam Quả (Bất Lai).”

“Phần giới thiệu của kinh này là do đời sau ghép vào. Phần này kể rằng người Bà La Môn Bavari thông thạo các bộ Vệ Đà, bản thân có 16 môn đệ giỏi, và mỗi môn đệ có trường dạy với các môn đệ riêng. Bavari bị một dị nhân tới làm bùa chú, trù ếm là Bavari sẽ bị chẻ đầu làm bảy mảnh vì không có để cúng ông này 500 tiền vàng. Bavari sầu khổ, được một vị thiên (trời) tới chỉ dẫn, rằng hãy tìm Đức Phật để cứu nạn. Bavari nhờ 16 môn đệ tìm tới Đức Phật. “

– 998. [Bavari] Bậc Toàn Giác rất hiếm gặp nơi thế giới này đã tới. Hãy nhanh chóng tới thành Savatthi để gặp Người Tối Thắng này.

-999. [Các môn đệ] Kính thưa Ngài Bà La Môn, làm sao chúng con biết vị đó là Đức Phật Toàn Giác? Thầy hãy chỉ chúng con cách làm sao để biết đó là vị Thế Tôn?

-1000. [Bavari] Trong các bộ Vệ Đà truyền lại cho chúng ta có ghi về 32 tướng tốt của bậc Thượng Nhân.

-1001. Hễ có ở tay chân 32 tướng tốt của bậc Thượng Nhân, vị đó sẽ chỉ có hai nơi định sẵn, không có trường hợp thứ ba.

-1002. Nếu sống đời tại gia, vị này sẽ chiến thắng địa cầu này, không dùng gậy hay gươm, vị này cai trị theo Chánh pháp.

1003. Nếu xuất gia, vị này sẽ là bậc Gỡ Bỏ Vô Minh, là bậc Thế Tôn, là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, vô thượng.

– 1015. Nay là lúc Đấng Thế Tôn ngồi trước tăng đoàn, đang giảng pháp cho các tỳ khưu, như tiếng gầm sư tử trong rừng.

-1016. Ajita nhìn thấy Đức Phật, hào quang như mặt trời sáng rực, như mặt trăng trong đêm rằm.

-1017. và sau khi nhìn thấy các đặc tướng đầy đủ nơi tay chân của Đức Phật, Ajita vui mừng đứng bên, và hỏi thầm trong tâm.

-1025. [Ajita] Bavari hỏi về đầu và về chẻ đầu ra nhiều mảnh. Xin Thế Tôn giải thích, gỡ bỏ nghi ngờ của chúng con.

-1026. [Đức Phật] Hãy biết vô minh gọi là “cái đầu” trong khi hiểu biết ra (giác ngộ) chính là “chẻ đầu ra” , nối kết với tín, niệm, định, dục tinh tấn, và năng lực.

-1027. [Người kể] Với cảm xúc lớn, bày tỏ tôn kính, chàng trai quấn tấm da nai lên một vai, quỳ lạy đặt đầu nơi bàn chân Đức Phật

– 1029. [Đức Phật] Người Bà La Môn Bavari, hãy sống vui, an lạc với các môn đệ. Và quý vị hãy sống vui, an lạc. Và chàng trai này, mong chàng sống trường thọ.

-1030. Tất cả nghi ngờ nào Bavari, hay ông, hay bất kỳ ai có, hay bất cứ những gì trong tâm, người đều được phép hỏi.

-1031. Được Đức Phật cho phép, Ajita ngồi xuống, hai tay chắp kính lễ và hỏi Đức Như Lai câu hỏi đầu tiên.

1) Các câu hỏi của chàng thanh niên Ajita

-1032. [Ajita] Thế giới này bị những gì bao phủ? Sao nó không chiếu sáng ra được? Xin ngài nói cái gì làm nó ô nhiễm? Nỗi sợ lớn của thế giới là gì?

-1033. [Đức Phật] Vô minh bao che thế giới này. Nó không chiếu sáng được vì ngăn che bởi tham dục và không tỉnh thức (không được thấy như nó là). Tham cầu là ô nhiễm của nó. Ta nói, khổ là nỗi sợ lớn của thế giới.

2) Các câu hỏi của Tissa-Metteyya

– 1040. [Tissa] Ai thỏa mãn trong thế giới này? Ai không dao động? Ai là người trí tuệ, đã biết suốt cả hai đầu (quá khứ và tương lai), và không nhiễm ô nơi chặng giữa (hiện tại)? Ai mà ngài gọi là bậc Thượng Nhân? Ai là người vượt qua được mạng lưới tham ái thêu dệt?

-1041. [Đức Phật] Đó là người sống đời trong sạch giữa các thọ lạc, xa lìa tham, luôn luôn tỉnh thức và tịch lặng, tự quán chiếu sâu thẳm, không còn gì dao động.

-1042. Đó là một người trí tuệ, đã biết cả hai đầu nhị biên, và không dính mắc vào chặng giữa. Ta gọi đó là bậc Thượng Nhân, người đã vượt qua mạng lưới lưới thêu dệt ái nhiễm.

3) Các câu hỏi của Punnaka

-1043. [Punnaka] Đối trước người bất động, người đã thấy cội rễ, con xin nêu câu hỏi: Vì sao nhiều đạo sĩ, dân chúng, giới quý tộc và giới Bà La Môn trong thế giới này cúng lễ các vị thiên? Xin Đức Phật trả lời cho con.”

“Qua lời Phật dạy, nghi lễ tôn giáo là vô ích. Cúng lễ, hiến tế vô ích. Giải thoát là người đã thấy được xa và gần trong thế giới này (has discerned far and near in the world). Xa và gần là gì? Có thể hiểu như Kinh Sn 5.2. Nhưng Kinh Sn 5.3 không nói gì về chặng giữa, cho nên “xa và gần” có thể hiểu như nhìn thấy trong chánh niệm các pháp tập khởi và biến diệt. Đức Phật cũng dạy là phải vắng lặng và tỉnh thức và xa lìa tham với sân.”

4) Các câu hỏi của Mettagu

“Kinh này Đức Phật dạy giữ tâm vô sở trụ, không để dính mắc vào bất cứ những gì ở hướng trên, ở hướng dưới, và các hướng giữa hai phía. Như thế, thức sẽ không duyên vào sanh-hữu, xa lìa mọi thứ “cái của tôi” và như thế, sẽ giải thoát.”

– 1049. [Mettagu] Bạch Thế Tôn, xin trả lời con câu hỏi này. Con xem ngài là vị Thầy thông suốt các bộ Vệ Đà, bậc hiền trí. Vì sao vô lượng sầu khổ khởi lên cho bất kỳ ai trong cõi này?

-1050. [Đức Phật] Ngươi hỏi ta về cội nguồn sầu khổ. Ta đã Biết, ta sẽ nói: sầu khổ trong vô lượng hình thức sinh khởi vì dính mắc chấp giữ.

5) Các câu hỏi của Dhotaka

“ Kinh này bắt đầu bằng câu hỏi, làm sao tự tu học để thể nhập Niết Bàn. Đức Phật trả lời rằng pháp tịch tịnh tối thượng là đối với bất cứ những gì trên, dưới, ngang bằng chặng giữa, đừng khởi bất kỳ tâm tham ái hay tâm dính mắc nào.”

– 1061. [Dhotaka] Con xin hỏi Thế Tôn, xin mở lời dạy cho con để con có thể tự thể nhập Niết Bàn.

– 1068. [Đức Phật] Hỡi Dhotaka, với bất cứ những gì con biết, dù trên cao, dưới thấp và khắp chặng giữa, hãy hiểu rằng đây như là dây trói vào thế giới này, đừng tham đắm với bất kỳ trạng thái sinh tồn nào.

6) Các câu hỏi của Upasiva

“Làm cách nào vượt qua trận lụt lớn?

Đức Phật dạy rằng hãy tỉnh thức và không nương tựa bất kỳ một pháp nào. Không một pháp nào? Thiền sư Phật Quả Viên Ngộ là người soạn ra tuyển tập công án Bích Nham Lục, vẫn thường nói rằng chư Phật không một pháp trao cho người. Trong tác phẩm “Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất” của Bồ Đề Đạt Ma, bản Việt dịch của Trúc Thiên, nơi những trang đầu tiên có ghi hai câu thơ của Thiền Tông Trung Hoa:

Tịch diệt thể vô đắc
Chân không tuyệt thủ phan.

(Thể Niết bàn không chứng đắc,
Chân không chặt đứt tay leo.)

Đó là nơi không thể vin tay vào đâu được. Đó là nơi không có gì để được (vô đắc) vì vốn đã có sẵn trong thể vắng lặng (trong tâm). Hễ còn vin vào bất kỳ pháp nào, dù là dính tới bất kỳ sắc thanh hương vị xúc pháp nào, đều sẽ hỏng , vì là, hễ vin vào bất cứ gì, là trên đầu mọc thêm đầu, trên tâm lại chồng thêm tâm. Và vì không hề nương vào một pháp nào, nên mới vào được Cửa Không Cửa (Vô Môn Quan).”

-1069. [Upasiva] Ô ngài Thích Ca, con đơn độc, không gì nương tựa, con không thể vượt qua dòng nước lũ lớn này. Hỡi Bậc Nhìn Thấu Suốt Tất Cả, hãy chỉ con phương tiện để vượt qua trận lụt.

-1070. [Đức Phật] Hỡi Upasiva, hãy tỉnh thức, nhìn về không một pháp nào, nương tựa “không một pháp nào” mà vượt qua dòng nước lũ. Rời dục lạc, bỏ nói năng, ngày đêm liên tục nhìn cho cạn kiệt tham ái.”

– 1076. [Đức Phật] Hỡi Upasiva. Không thể đo lường nào đối với người đã tới nơi an nghỉ giải thoát, không có gì người ta có thể mô tả về người đó, nơi tất cả các pháp đều hoàn toàn được gỡ bỏ, nơi tất cả mọi đường ngôn ngữ cũng hoàn toàn được gỡ bỏ.

7) Các câu hỏi của Nanda

– 1080. [Đức Phật] Hỡi Nanda, bất kỳ ai trong các ẩn sĩ và Phạm chí này nói rằng thanh tịnh tới từ những gì được thấy và nghe, nói rằng thanh tịnh tới từ giới luật và tuân thủ rèn luyện, nói rằng thanh tịnh tới từ nhiều cách khác nữa, mặc dù họ đang sống kềm chế như thế, ta nói họ vẫn chưa vượt qua sinh và già.

– 1083. [Nanda] Bạch ngài Gotama, con rất mực vui mừng nghe lời dạy của ngài đại đạo sư, dạy rõ ràng pháp giải thoát ra khỏi dính mắc. Bất kỳ ai nơi đây không còn dựa vào những gì được thấy, nghe, cảm thọ, không còn dựa vào giới cấm và rèn luyện tu tập, và cũng đã rời bỏ toàn bộ vô lượng cách khác nữa – hễ ai biết rõ tận tường tham ái, không còn lậu hoặc nữa – con cũng nói những vị đó đã vượt qua trận lụt.

8) Câu hỏi của Hemaka “ Hemaka hỏi rằng, làm sao để giải thoát. Đức Phật trả lời rằng, hãy gỡ bỏ ham mê say đắm đối với bất cứ những gì khả ái, những gì dễ thương trong các cõi được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận biết. Luôn luôn giữ chánh niệm như thế, sẽ giải thoát ngay trong đời này. Tuy nhiên, không mê đắm, cũng có nghĩa là không ghét bỏ. Bởi vì hễ có tâm mê đắm cái này, tất sinh tâm ghét bỏ những gì trái nghịch với nó. Hãy thấy, các pháp như thế, chỉ là như thế, hễ đủ duyên thì khởi lên được thấy nghe hay biết, không có gì phải ưa thích hay ghét bỏ. Đại Châu Thiền sư từng nói:

“Định là đối cảnh vô tâm, tám ngọn gió chẳng làm lay động. Nếu chứng đặng pháp Định như thế, tuy là mang thân phàm phu mà đã và đã vào ngôi vị Phật.”

Như thế, Phật chính là Tâm Bất Động vậy.”

– 1085. Ngài là Đấng Mâu Ni, con xin ngài dạy Pháp phá hủy tham ái, để người nghe hiểu được và sống một cách tỉnh thức, vượt qua những dính mắc của thế giới này.

-1086. [Đức Phật] Hỡi Hemaka, với các pháp khả ái nơi đây được thấy, được nghe, được cảm thọ và được nhận biết, hãy gỡ bỏ lòng ham mê say đắm – như thế là trạng thái Niết Bàn bất tử.

-1087. Hiểu được Pháp này, những người tỉnh thức (để gỡ bỏ như trên) sẽ giải thoát ngay trong đời này. Và luôn luôn tịch lặng, họ bước qua những dính mắc trong thế giới này.

9) Các câu hỏi của Toddayya

“Kinh này gợi nhớ tới Bát Nhã Tâm Kinh, trong đó nói rằng khi đã thấy tất cả các pháp đều rỗng rang, đều vô tự tánh, đều không tịch… thì sẽ không còn chút ái dục (với các căn), sẽ không còn chút tham, chút ước vọng nào (dù là muốn làm Phật, muốn làm Thánh). Chính nơi tịch lặng như thế là giải thoát tối thượng.”

1088. [Todeyya] Với người không còn ái dục nữa, với người không còn chút tham nào nữa, với người đã vượt qua tất cả ngờ vực – như thế là loại giải thoát nào cho người đó?

-1089. [Đức Phật] Với người không còn ái dục nữa, với người không còn chút tham nào nữa, với người đã vượt qua tất cả ngờ vực – đó chính là giải thoát tối thượng.

10) Các câu hỏi của Kappa

“Kinh này cũng nói là đừng, là chớ, là không… mà không nói là phải làm gì. Đức Phật nói rằng hỏn đảo cứu người đang bị ngập lut giữa dòng là tỉnh thức sống với pháp “Không sở hữu gì hết, không dính mắc gì hết.” Có thể gọi tắt Kinh Sn 5.10 là “ưng vô sở trụ” – như lời Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cương.”

– 1093. [Đức Phật] Với những người đứng giữa dòng nước, trong khi lũ lụt kinh hoàng dâng cao thêm – với những người bị già chết tràn ngập, hỡi Kappa, ta sẽ nói về một hòn đảo.

-1094. “Không sở hữu gì hết, không dính mắc gì hết” – đó là hòn đảo của pháp tối thượng, ta gọi đó là Niết Bàn, nơi đoạn diệt của già chết.

11) Những câu hỏi của Jatukani

“Chàng trai Jatukanni hỏi rằng làm sao buông bỏ sinh và già. Đức Phật trả lời rằng chớ tham ái dục, nhưng cũng chớ nắm giữ hay xua đẩy gì. Và chớ để dính gì tới quá, hiện, vị lai. Nghĩa là, buông bỏ cả quá, hiện, vị lai.”

-1099. Hãy để khô héo tất cả những gì của quá khứ, và chớ hề có chút gì dính tới tương lai. Nếu con không nắm giữ gì trong chặng giữa (hiện tại), con sẽ sống trong bình an.

12) Các câu hỏi của Bhadravudha

“ Kinh này nói rằng chớ nên dính mắc bất cứ thứ gì, dù là dính mắc vào những gì ở trên, ở dưới, ở chặng giữa. Nhóm chữ “trên, dưới, chặng giữa” được Luận thư Nidd II giải thích là: tương lai (trên), quá khứ (dưới), hiện tại (giữa); cõi thiên, cõi địa ngục, cõi người; cõi vô sắc, cõi dục, cõi sắc. Trong sách “Công Án của Phật Thích Ca và Tổ Đạt Ma,” bản Việt dịch của Thầy Thích Duy Lực có một công án, như sau:

“Thế Tôn thăng tòa, có một Phạn Chí cúng dường hoa ngô đồng. Phật bảo: Buông xuống đi! Phạn Chí buông hoa bên tay trái xuống. Phật bảo tiếp: Buông xuống đi! Phạn Chí buông hoa còn lại bên tay mặt xuống. Phật lại bảo: Buông xuống đi! Phạn Chí nói: Nay hai tay con đã không còn gì, sao Phật còn bảo buông cái gì xuống nữa? Phật nói: Chẳng phải ta bảo ngươi bỏ hoa. Ngươi phải buông xả ngoài lục trần, trong lục căn, giữa lục thức, nhất thời xả hết đến chỗ không còn gì để xả. Ấy chính là buông thân xả mạng của ngươi. Phạn Chí ngay đó ngộ vô sanh nhẫn.”

13) Các câu hỏi của Udaya

-1105. [Udaya] Đối trước bậc Thiền nhân, ngài đã ngồi xa lìa bụi, đã làm xong việc phải làm, với lậu hoặc không còn, đã vượt qua tất cả các pháp, con xin hỏi, xin ngài nói về trí giải thoát, về phá vỡ vô minh.

1106. [Đức Phật] Hỡi Udaya, hãy buông ái dục, lìa ưu trầm, dẹp bỏ lười biếng, xa rời hối tiếc.

14) Các câu hỏi của Posala

-1112. [Posala] Đối trước người đã chỉ ra quá khứ, người đã bất động, người đã cắt đứt mọi ngờ vực, người toàn hảo trong mọi pháp, con tới với một câu xin hỏi.

-1113. Đối với người đã đoạn tận tưởng về sắc, người đã buông bỏ thân toàn bộ, người thấy cả trong và ngoài đều là “rỗng rang, không có gì”, người như thế có sẽ bị dẫn dắt đi đâu?

-1114. [Đức Phật] Hỡi Posala. Như Lai biết tận tường tất cả các nơi trú của thức, biết nơi thức trụ vào, nơi thức sẽ được giải thoát, hay sẽ bước qua bờ giải thoát.

15) Các câu hỏi của Mogharaja

– 1117. Con không hiểu về quan kiến (view, quan điểm) của người Gotama nổi tiếng về thế giới này, về thế giới khác, về cõi Phạm Thiên, về cõi chư thiên.

-1118. Do vậy, con xin hỏi vị Có Mắt Tối Thượng: Nên nhìn thế giới như thế nào để Thần Chết không nhìn thấy mình?

-1119. [Đức Phật] Hỡi Mogharaja, hãy luôn luôn tỉnh thức và nhìn thế giới như rỗng rang, với cái nhìn về tự ngã đã bứng gốc, người đó sẽ vượt qua sự chết. Thần Chết không thể thấy người đã nhìn thế giới này như thế.

Theo tác giả, gom về một lời của Đức Phật: “Hãy luôn luôn tỉnh thức và nhìn thế giới như rỗng rang, với cái nhìn về tự ngã đã bứng gốc. Như thế, chính là Bát Nhã Tâm Kinh, với lời dạy “ngũ uẩn giai không.”

Nơi đây, căn-trần-thức đều rỗng rang vô tướng. Chỉ cần rút cọng tranh này ra, cả bó tranh sẽ tan rã. Vì Duyên Khởi, nên tất cả đều rỗng rang không có tự thể/ thực thể.”

16) Các câu hỏi của Pingiya

Kinh này, Đức Phật dạy hai pháp trong hai bài kệ, pháp nào cũng tới giải thoát.

1123. [Đức Phật] Hỡi Pingiya. Nhìn thấy nhân loại, nạn nhân của tham, bị hành hạ, bị tuổi già đè bẹp, do vậy, Pingiya hãy tinh tấn, buông bỏ tham và không trở lại tái sanh nữa.

17) Phần Kết: Các bài kệ ca ngợi Pháp Qua Bờ Kia

-1131. [Pingiya] Tôi sẽ tụng đọc Pháp Qua Bờ Kia, như ngài đã nhìn thấy và đã giảng dạy – Ngài là bậc đại trí, bậc không nhiễm ô, bậc xa lìa ái dục, bậc mạnh mẽ, đã giải thoát, hà cớ gì ngài nói sai được.

– 1133. Đức Phật là Người Nhìn Thấu Suốt, đã xua tan bóng tối, đã tới tận cùng thế giới, đã vượt qua tất cả các sanh hữu, đã lìa xa sầu khổ, không còn cấu nhiễm, người có tên chân thực như thế – một Bậc Phạm Hạnh — tôi theo hầu vị đó.

– 1144. Thưa ngài Phạm Chí. Con đã già, sức yếu, run rẩy, thân con không tới nơi đó được, nhưng tâm con luôn luôn hướng tới, toàn tâm bên Đức Phật.

– 1148. Người biết những gì vượt xa chư thiên, người hiểu mọi pháp cao và thấp, vị Thầy đã kết thúc các câu hỏi từ những người tự thấy còn ngờ vực nêu lên.

– 1149. Bất động, Không gì lay chuyển, Không nơi đâu sánh được. Chắc chắn, con sẽ đi tới đó, con không ngờ vực gì hết. Đức Phật hãy nhớ về con rằng con đã toàn tâm hướng về Niết Bàn.

Thay Lời Kết:

Kinh Nhật Tụng Sơ Thời do Phật nói và được các đệ tử học thuộc lòng rồi đọc tụng lúc Phật còn tại thế, đã được chư tổ hiểu, vâng giữ và thực hành và đã chứng đắc. Điều này cho thấy dù giáo lý của Đức Phật khó nhưng không phải không thể tu chứng. Công lao của cư sĩ Nguyên Giác thật lớn khi bỏ thời gian để đọc sáu (6) bản dịch tiếng Anh từ Pali rồi đối chiếu với bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu để cống hiến cho người tu học một bản Việt dịch rõ ràng nhất, cùng lời bình chú.

Đây không phải Kinh của Phật tử bình thường mà là những lời dạy tha thiết và rốt ráo của Đức Phật cho hàng Đại Sĩ để vượt qua sinh tử luân hồi, an lạc và giải thoát, tiến tới Thánh quả. Chúng ta cũng thấy qua kinh này, các hàng thượng trí của Bà La Môn, dù đã tu và hành trì cả đời theo Kinh Vệ Đà (Kinh Tri Thức) chứa đựng rất nhiều trí tuệ mà không tìm thấy con đường giải thoát cho nên đã phải tìm tới Đức Phật và rất nhiều vị đã trở thành đệ tử của Ngài. Ngày nay, một số đông trí thức Ấn Độ đã chuyển qua Phật Giáo vì họ nhìn thấy giá trị của Phật Giáo và từ Bà La Môn chuyển qua Phật Giáo không hề có chướng ngại về cả ba mặt chính trị, văn hóa và tâm linh.

Kinh nghiệm cho thấy một tôn giáo tuyệt đối tin tưởng vào thần linh, không sử dụng trí tuệ, tin vào những điều không thấy, không có… và nhất là Chấp Ngã, tức chấp vào Cái Tôi Có Thật thì khó lòng chuyển hóa qua Phật Giáo.

Xuyên qua Phẩm Tám (Atthaka Vagga) và Phẩm Qua Bờ Kia (Parayanavagga), lời chỉ dạy tối thượng của Phật chỉ là: Từ bỏ tham dục, không tranh cãi, không để đầu óc vướng bận vào tất cả những gì đang xảy ra chung quanh mình, không nương tựa, bám víu, ẩn nấp vào đâu để sanh Tâm, không chấp giữ một cái gì, không mê luyến, ray rứt, thắc mắc về hiện tại, quá khứ, vị lai. Hiểu như thế, tự mình tu như thếhành trì như thế…chắc chắn sẽ tới bờ giải thoát trọn vẹn mà Phật gọi đó là Niết Bàn.

Ngày nay chúng ta phải tiếp xúc với tín đồ của nhiều tôn giáo. Nhưng người con Phật chân chính không bao giờ phải vay mượn giá trị của các tôn giáo khác để minh chứng cho giá trị của Đạo Phật. Chúng ta cũng không bao giờ dùng hình ảnh của các giáo chủ của tôn giáo khác để so sánh và tôn vinh Phật. Đức Phật đã là Mặt Trời thì Mặt Trời không cần một thứ đèn, một thứ ánh sáng nào khác để tăng thêm ánh sáng hay chiếu soi cho nó. Ngoài ra, khi hành đạo, chúng ta tuyệt đối ghi nhớ lời Phật dạy trong bài kệ 929.

Người tu sĩ không mua bán gì, không làm gì để bị chỉ trích, không la cà thân cận trong xóm cư dân, không nói lời chiêu dụ để kiếm chác.”

Tuyệt đối không được nói để chiều lòng người hầu kiếm chác tình cảm, tiền bạc, lợi dưỡng … Nói để chiều lòng người là giả dối, là lừa mị.

Kinh Nhật Tụng Sơ Thời là kho báu của Phật Giáo và nên trở thành Kinh Nhật Tụng Đương Thời mà tất cả những ai mong muốn viên thành Phật quả cần phải đọc tụng mỗi ngày.

Sách do Ananda Việt Foundation xuất bản, Amazon phát hành. Quý vị có thể vào: amazon.com:books rồi đánh máy nguyen giac (chữ Việt không dấu) để mua sách.

Trân trọng giới thiệu,

Đào Văn Bình
(California ngày 2/1/2019. PL.2563)

Đại sư Teitaro Suzuki – 1870 – 1966



Ai cũng biết Zen của Nhật Bản nguyên là Thiền Tông của Trung Hoa truyền sang, mà nói đến Zen hay Thiền là nói đến phần tinh túy nhất, siêu việt nhất của Đại thừa Phật giáo.

Đa số những học giả Âu Mỹ, cách nay độ trăm năm khi nói đến Phật giáo, chỉ biết có Nam Tông. Điều ấy dễ hiểu với sự lệ thuộc của các nước Nam Tông vào chính quyền nhiều đế quốc Tây phương, nhất là Anh.

Rồi đến khi họ biết còn có một tông phái Phật giáo nữa là Bắc Tông, thì một phần bị ám ảnh bởi những lời phê bình quá nghiêm khắc nếu không nói là kỳ thị của Nam Tông, một phần khác vì thiếu tài liệu tham khảo, họ cũng theo đường lối chê bai của tu sĩ, học giả hệ thống Ba Li mà khinh thường hoặc lên án Đại Thừa là hệ thống Bắc phạn (Sanscrit).

Đã đành trước Suzuki có một ít học giả cố trình bày cho Tây phương biết thế nào là những quan điểm của Đại Thừa, nhưng kết quả không có là bao. Thành thật mà nói, nếu không có Suzuki thì cái tinh hoa và cái siêu đẳng của Đại Thừa đến ngày nay vẫn còn mai một. Ấy cũng vì các tiền bối của Suzuki không có đầy đủ những yếu tố làm cho vị Đại sư này thành công. Ngoài cái học lực rộng như biển — Suzuki biết Hán văn, Phạn ngữ, Tây Tạng, Anh ngữ, Pháp ngữ 一 Đại sư còn một điểm đặc biệt là hành giả, một hành giả đã đi sâu vào nẻo Đạo, đã thu thập nhiều ấn chứng, khiến Đại sư “tâm thông cập thuyết thông”. Đã thuyết thông lại thêm trình bày theo thể cách Âu Mỹ, bằng chính ngôn ngữ của họ với một nghệ thuật tinh vi, những sách của Đại sư đã làm phát khởi một phong trào nghiên cứu rất có lợi cho Đại Thừa và mỗi lúc mỗi lôi cuốn thêm thành phần trí thức. Công của Đại sư thật là vĩ đại.

Để kỷ niệm một bực chơn tài có thể nói đã hiến trọn đời mình cho công cuộc xướng minh Đại Thừa Giáo, chúng tôi cho dịch đăng sau đây bài của Mary Farkas, trích ở nguyệt san “Zen Notes” vừa nhận được do Đệ Nhất Thiền Viện Hoa Kỳ (The First Zen Institute of America) xuất bản (Vol. XIII. No. 7, July 1966). T.Q.

Khuôn mặt nổi bật nhất của Thiền hiện đại đã lặng lẽ qua đời ngày 12 tháng 7 năm nay (1966) ở Nhật là nơi ông đã sống từ năm 1958. Nếu lấy năm l866 mà kể là năm Nhật bản bắt đầu nhìn về phương Tây và tư tưởng Nhật bắt đầu chuyển hướng về cùng một phía, thì cuộc đời của Đại sư Suzuki có thể nói là đã đi suốt thế kỷ đầu của cuộc chuyển hướng ấy. Trong mọi thời đại, Đại sư là người có đại công làm cho Tây phương hiểu được tư tưởng xứ Phù tang.

Mặc dầu Đại sư được nổi tiếng với lối ba chục cuốn sách bằng Anh Ngữ và nhiều bài báo, các tác phẩm ấy ít nói gì về đời tư hay những tư tưởng riêng của Đại sư, đối lập với những tư tưởng triết học hay tôn giáo. Tạp chí The Middle Way37 tháng 11 năm 1964, có kể lại “Những ký ức đầu tiên” do chính Đại sư viết, nhưng ngoài tập hồi ký linh hoạt và cảm động này, tôi không thể nhớ lại một chi tiết nào mà Suzuki đã tiết lộ về những hành trì của ông.

Trong phần dẫn nhập của cuốn The Essentials of Zen Buddhism, một vài nét chính của đời ông được nêu lên. Đây là một tập hiệp tuyển những trước tác của Suzuki, do Bernard Philipps chọn lọc và ấn hành, và do chính Đại sư duyệt lại, xuất bản ở Nữu Ước năm 1962 (Nhà xuất bản E.P. Dutton). Tài liệu nầy đã làm căn cứ cho vài sự kiện nêu ra ở đây, với tính cách gần như một tiểu sử chính xác nhất, được viết bằng Anh ngữ về Đại sư từ trước đến nay. The Essentials là một cuốn sách dễ hiểu, chọn lọc, mà mục đích là giới thiệu những quan điểm của Suzuki về Thiền. Tiến sĩ Philipps từ lâu đã là một nhà giáo dục trong địa hạt tôn giáo và triết học, bởi thế cuốn sách này có lẽ là cuốn chỉ nam tốt nhất cho những ai muốn nghiên cứu tư tưởng của Suzuki trong một tương lai gần đây.

Vì Zen đtrợc chấp nhận ở Nhật, nghĩ không cần thiết nhiều sự “giới thiệu” Thiền với công chúng Nhật. (Tiến sĩ Suzuki được mời giảng cho Thiên Hoàng nghe về “Tinh túy của Phật giáo” vào những ngày 23 và 24 tháng 4 năm 1946. Năm ấy Hội Phật giáo Luân Đôn có ấn hành một tập ghi lại những buổi giảng của ông). Trước khi Suzuki bắt đầu trình bày Thiền cho Tây phương, không một người Nhật nào trên thực tế đã thử làm việc đó. Kaiten Nukariya, trong một tác phẩm nhan đề The Religion of Samurai, xuất bản năm 1913, thật ra có thử làm, nhưng không thành công một cách sâu rộng. Như tiến sĩ C.G. Jung nói trong lời giới thiệu cuốn An Introduction to Zen Buddhism của Suzuki, cố gắng của Nukariya không làm cho chúng ta hiểu được cái phát huệ gọi là “Satori” (đề tài chính của Suzuki khi trình bày). Satori (Ngộ) là lý do tồn tại của Thiền, không có Satori thì không có Thíền. Nukariya luận giải với cái thuần lý (rationalism) của Tây phương mà ông thâm nhiễm quá sâu đậm, và chính vì thế mà sách của ông thiếu sức truyền cảm và chỉ có một tính cách xây dựng vô vị mà thôi. Một vài nhà trước thuật sau nầy đã theo con đường của Jung đề nghị:

“Tốt hơn là để y nguyên cái lờ mờ bí hiểm của những giai thoại về Thiền, càng nói ít về cái lờ mờ ấy, ý nghĩa nó càng nhiều”. 

Jung nói tiếp:

“Thật đỡ biết bao nếu người ta để cho mình tự thâm nhập trước cái bí hiểm tha phương ấy, và luôn luôn nhớ rằng Satori là một mầu nhiệm không thể tả, chính các vị Thiền sư mong muốn như thế. Theo sức hiểu biết của chúng ta, giữa những giai thoại của Thiền tông và cái chứng ngộ thoạt đến, có một vực thẳm; điều mà người ta họa may làm được là nêu lên sự có thể bắt một chiếc cầu trên vực thẳm ấy, đừng mong thực hiện được việc ấy trên thực tế”. 

Khi nhận xét như thế, Jung đã thêm mấy lời để bào chữa cho các nhà trước thuật về Thiền:

“Nếu đã biết như vậy mà tôi cố ‘giảng giải’ những gì sau đây, tôi hoàn toàn ý thức rằng những gì tôi nói về ý nghĩa của Satori đều vô dụng. Dù sao, tôi không cưỡng được trước sức cám dỗ muốn lái cái tri kiến của Tây phương đến gần một cái tri kiến khác, công việc mà tôi biết khó khăn đến nỗi phải liều gánh trách nhiệm của một vài tội ác đối với tinh thần của Thiền.”

Quyển Japanese Buddhism (Phật giáo Nhật Bản) của Suzuki, do phòng Du Lịch Đông Kinh ấn hành lần đầu tiên năm 1938, trình bày cho người Tây phương thấy những gì mà người Nhật thời ấy cho là thú vị trong Phật giáo. Năm 1958, Suzuki thêm vào sách ấy những điểm đáng chú ý về Thiền. 

Lần hồi với thời gian, Thiền được đặt ngang hàng với Phật giáo Nhật bởi vì, đối với người ngoại quốc ngày nay, Thiền được xem gần như là “tinh hoa của nền văn hóa tế nhị nhất của người Nhật”, như Sir George Sansom đã nóỉ. Vì lẽ này, khi tái bản có hiệu chính, tên của sách được đổi lại là Zen and Japanese Buddhism. Tôi xin ghi điều nầy: đứng ra trình bày Thiền cho Tây phương, tiến sĩ Suzuki đã trở thành người diễn đạt tư tưởng Nhật lỗi lạc nhất. Vì trong các tác phẩm của ông, chẳng những Đại sư giảng giải về Thiền, mà còn cho độc giả một cái nhìn tổng quát về những điểm đặc sắc nhất của nền văn hóa, mỹ nghệ và thủ công, và về những cái đặc biệt, độc đáo của dân tộc Nhật, như kiếm thuật, thủy mặc, bút thảo, trà đạo và thuật cắm hoa. Trong lối trình bày này, những cái xảo thuật cỏn con của Nhật đã trở thành như đồng nghĩa với Thiền, nhất là sau khi Suzuki cho xuất bản cuốn Zen Buddhism and Its influence on Japanese Culture— có lẽ đây là tác phẩm lôi cuốn nhất của Đại sư, đối với phần đông độc giả. Cuốn sách này được Hội Phật Học Đông Phương ở Kyoto ấn hành lần đầu tiên năm 1938. Về sau, sách ấy được điều chỉnh và tái bản trở thành cuốn Zen and Japanese Culture.

Năm 1936, Đại sư Suzuki diễn thuyết ở Đại Học đường Columbia, Một bà bạn trong đám chúng tôi, khi đi nghe ông giảng trở về đã tỏ ý thất vọng, nói rằng phần lớn bà chỉ nghe Đại sư nói về trà đạo mà thôi. Sokei-an (Tào Khê Am) đã nhận xét như sau:

“Người Mỹ hễ nói đến Nhật là nói đến thuật pha trà, cho nên Đại sư đã lấy đề tài trà đạo.“ 

Những gì Đại sư có lẽ đã chọn để trình bày, nếu không bị ảnh hưởng bởi sự cân nhắc nói trên, ta có thể đoán được trong lời ngỏ của Đạt sư với hội viên của Thiền Viện (lúc ấy là Hội Phật giáo Mỹ quốc), nhân một cuộc diễn thuyết mà trước đó mấy ngày Đại sư đã nhận theo lời yêu cầu của Sokei-an. Hôm ấy, Suzuki nói về lịch sử Phật giáo và sự khác biệt giữa hai nền Phật giáo Ấn-Hoa, một đề tài được Đại sư đặc biệt chú ý, Lúc ấy, như Giáo sư Tsunoda đã nhận xét, Đại sư đã có 16 cuốn sách trong thư viện trường Columbia. Về Thiền, những sách đầu tiên lôi cuốn sự chú ý của người Mỹ là (theo thứ tự):

Essays in Zen Buddhism đợt một (1927), Essays đợt hai (1933) và đợt ba (1934), An Introduction to Zen Buddhism (1934), The Training of the Zen Buddhist Monk (1934), Manual of Zen Buddhism (1935) và Zen Buddhism and Its influence on Japanese Culture (1938).

Những tác phẩm ấy thật đã đặt nền tảng cho kiến thức Tây phương về Thiền. Hình ảnh Thiền trình bày trong đấy chính là những gì thu hút độc giả Tây phương đến với Thiền. Trái với sự nghiên cứu Thiền ở Nhật (Thiền chớ không phải công án) thường thiên về giáo lý Đại thừa, về kinh điển và về lập trường triết lý của các tông, các phái, cái tinh túy của Suzuki trình bày là một thứ Thiền tích cực, diện đối diện, và của Satori (giác ngộ). 

Vì là một văn sĩ chuyên nghiệp, Đại sư bắt buộc phải trình bày một đề tài có thể lôi cuốn độc giả. Nếu tất cả những tác phẩm của Đại sư đều như những cuốn Lankavatara Sutra (Lăng Già Kinh), l932, Studies in the Lankavatara (Nghiên cứu Kinh Lăng Già), 1930, là những sách chỉ dành cho học giả, câu chuyện về Thiền ở Mỹ ắt đã là một câu chuyện khác hẳn. Những tác phẩm bằng Anh văn của Suzuki được viết vào thế kỷ trước. Một là bản dịch cuốn The Gospel of Buddha (Phúc Âm của Phật Đà) mà Paul Carus đã sưu tập. Quyển thứ hai, A New Interpretation of Religion (Tôn Giáo Tân Giải), chứa đựng một tuyên thuyết mà nghĩ hàng Phật tử nên tin tưởng, căn cứ trên một bài văn phúng thích (pamphlet) mà Soyen Shaku (Thiền sư Chiếu Nguyên Giác) đã mang từ Mỹ về, nhân chuyến đi dự Đại hội Tôn giáo Thế giới hồi năm 1893. Chính nhờ Soyen mà Suzuki, vào năm 37 tuổi, được sang Mỹ làm việc cho Paul Carus ở La Salle, tiểu bang Illinois, là nơi Đại sư lưu lại hơn 10 năm. Suốt thời gian này, ông đã viết cho tạp chí Monist, phiên dịch ra Anh văn nào Đạo Đức Kinh của Lão Tử, nào những bài thuyết đạo của Soyen Shaku cho dân chúng Mỹ nghe, nào bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận của Ashvaghosha (Bồ Tát Mã Minh). Đại sư cũng có viết quyển A Short History of Early Chinese Philosophy (Trung Hoa Cận Đại Triết Học Lược Sử) và quyển Outlines of Mahayana Buddhism (Đại Thừa Phật Giáo Cương Yếu).

Quyết định trở thành một nhà văn của Suzuki dường như bắt nguồn từ ảnh hưởng của ông cụ thân sinh, vốn là một học giả và một văn sĩ bậc trung, tác giả của một quyển sử ngắn về Âu châu. Thật ra, thân phụ Đại sư là một y sĩ, như ông nội và ông cố của Đại sư. Tất cả đều chết sớm. Trường hợp hơi bất thường này chính là lý do thúc đẩy Suzuki quay về với Thiền. Trong quyển Ký Ức Ấu Thời, chính Suzuki đã viết:

“Dĩ nhiên, vào thời ấy, chuyện chết yểu không phải là chuyện hi hữu, tuy nhiên trường hợp mất sớm của một y sĩ dưới chế độ phong kiến cổ thời thật là một sự bất hạnh gấp đôi, bởi lẽ tiền phụ cấp lãnh nơi nhà chúa bị ngưng phát. Gia đình tôi, mặc dù thuộc hàng hiệp sĩ, lúc sinh thời của thân phụ tôi đã nghèo túng nay càng thiếu thốn hơn (lúc ấy tôi mới sáu tuổi), vì những khó khăn về kinh tế mà giai cấp hiệp sĩ gặp phải sau ngày chế độ phong kiến bị bãi bỏ.

“Vào thời ấy, mất cha có thể là một sự mất mát lớn lao hơn bây giờ, vì tất cả đều tùy thuộc vào người cha như vị chủ tể trong gia đình, tất cả những bước quan trọng, hoặc thuộc giáo dục, hoặc khi phải tìm một chỗ đứng trong cuộc đời, v.v. tất cả phải do cha định đoạt. Tôi đã mất tất cả những điểm tựa ấy, và khi tôi lên 17 hay l8 tuổi, những bất hạnh dập dồn làm cho tôi bắt đầu suy nghĩ về nghiệp báo của tôi, tại sao tôi đã phải gánh chịu những thiệt thòi ấy ngay ở ngưỡng cửa cuộc đời?

“Tâm niệm của tôi khởi sự quay về với tôn giáo và triết học, và vì gia đình tôi thuộc về phái Thiền Lâm Tế (Rinzai), tự nhiên tôi đã hướng về Thiền để tìm câu giải đáp cho những thắc mắc riêng tư”.

Như Sokei-an là người đã bắt đầu thiên về tôn giáo và triết học trong những ngày theo học cấp đại học ở Tokyo, Suzuki đã phối hợp việc nghiên cứu Thiền tông với công phu đèn sách ở nhà trường. Đại sư khởi sự thọ giáo với Imagita Kosen (mà Đại sư có viết một tiểu sử bằng Nhật văn), lúc ấy đang trụ trì chùa Enkakuji ở Kamakura (Khiêm Thượng), cách Tokyo chừng 30 dặm Anh. Vào buổi tham kiến lần thứ hai, Kosen dạy Đại sư về tham cứu công án Sekishu (tiếng vỗ của một bàn tay). Lúc ấy Suzuki 21 tuổi còn Kosen 76 (ngài là một đại nhơn, về vóc vạc luôn cả về nhân cách.) Một năm sau, Kosen liễu đạo và vị đồ đệ thân tín nhất của ngài, Soyen Shaku (Chiếu Nguyên Giác Thiền Sư) lên kế vị, Ngài tân trụ trì này trở thành thầy của Suzuki và cái công án trước kia được ngài đổi ra thành Vô. Suzuki phải công phu khó nhọc suốt bốn năm tròn mới đạt đến, chưa phải là sự chứng ngộ, mà cái tia sáng đầu tiên gọi là Kensho (Kiến chiếu).

Mùa xuân 1892, lúc tiếp dạy Suzuki, Soyen Shaku mới vừa từ Tích lan trở về, Sau khi theo học giáo lí Nguyên Thỉ và đỗ được bằng giảng sư. Lúc ấy Soyen 25 tuổi. Soyen cũng có theo học tại Đại học đường Keio nhiều môn học Tây phương. Đây là một việc làm hy hữu ở thời ấy, đối với một Thiền sư.

Theo Suzuki, nhiều người đã chỉ trích Soyen về cái học hướng ngoại ấy, kể cả Kosen. Kosen bảo Âu học sẽ không có ích lợi gì hết. Nhưng vì Soyen là một người cả quyết, chẳng những ngài không chú ý đến sự chỉ trích đó mà còn quyết định đi Mỹ năm 1893 để rồi trở lại đấy ở lâu hơn. Chính trong chuyến đi sau này, Suzuki đã theo làm thông dịch viên.

Suzuki đã nói nhiều về ấn chứng Satori (Ngộ) trong sách của ông, không phải một cách tổng quát mà nhấn mạnh về cái ấn chứng của riêng ông. Sau một cuộc “tranh đấu trường kỳ”, vào tháng 12 năm 1896, Suzuki ở vào giai đoạn khủng hoảng cực độ trong công phu giải quyết công án đầu tiên. Đại sư viết: 

“Khi rốt cuộc mọi sự đã sắp đặt xong để đi Mỹ giúp Tiến sĩ Carus phiên dịch Đạo Đức Kinh, tôi nhận ra rằng mùa đông năm ấy là dịp cuối cùng để cho tôi giải ra công án —cuối cùng vì nếu không thì chẳng biết bao giờ tôi giải được. Tôi cần phải đặt vào công phu tất cả nỗ lực tâm linh của tôi.

“Cho đến khi ấy, tôi đã luôn luôn ý thức rằng Vô vẫn ở trong tâm trí tôi, nhưng khi tôi còn ý thức về Vô thì điều ấy có nghĩa là tôi tự tách ra khỏi Vô, và, như vậy thì không phải ‘chánh định’. Nhưng vào ngày thứ năm, sau khi tập trung tư tưởng, tôi ngưng ý thức về Vô. Tôi với Vô là một, tôi đã đồng nhất với Vô cho đến nỗi không còn một hở hang nào giữa Vô và ý thức của tôi. Đây đích là trạng thái tam- ma – đề hay chánh định.

“Nhưng định không chưa đủ. Bạn phải ra khỏi trạng thái ấy, phải tỉnh dậy từ trạng thái ấy và sự thức tỉnh chính là Bát Nhã. Phút ra khỏi trạng thái định và nhận thấy cái ấy là cái gì, chính đó là Satori, là Ngộ. Khi tôi ra khỏi trạng thái định thì trong khoảng thời gian ấy, tôi nói: ‘Tôi thấy, nó đây rồi!’”

Từ Hoa Kỳ, Suzuki trở về Nhật Bản năm 1909, Ông ra làm Giáo sư Anh ngữ tại Đại học đường Per ở Đông kinh, và cũng dạy luôn ở Đại học đường Tokyo Imperial. Năm 1911, ông kết hôn với một thiếu nữ Mỹ, Beatrice Lane, là người cũng thiết tha như ông về Phật giáo và là tác giả của nhiều bài báo cùng một ít sách về đạo Phật. Quyển Mahayana Buddhism (Đại Thừa Phật Giáo) của Bà xuất bản năm 1938 (bà mất năm 1939) đã được tái bản lần thứ ba năm 1959.

Trong hơn mười năm nữa, Suzuki tiếp tục thọ giáo với Thiền sư Soyen Shaku (Chiếu Viên Giác) đến lúc Thiền sư viên tịch.

Suzuki thường cư trú tại Engaku-ji, trừ khoảng thời gian từ 1930 trở đi là lúc ông phải về ở Kyoto để làm giáo sư môn triết lý tôn giáo tại Đại Học Đường Otani. Tại thành phố này, Đại sư Suzuki, vào năm 1921 lập tờ tạp chí The Eastern Buddhist (Đông phương Phật tử), trong đó ông đã đăng lần đầu tiên những bài về sau làm nền tảng cho các sách do ông xuất bản. Những tác phẩm quan trọng bằng Anh văn của Đại sư đã được xuất bản trong một thời gian 12 năm, bắt đầu với cuốn Essays in Zen Buddhism, đợt I (1927). Tiếp theo là các quyển Studies in the Lankavatara (1930), The Lankavatara Sutra (1932), Essays in Zen Buddhism, đợt II (1933) Essays in Zen Buddhism, đợt III (1934) (Bà Sasaki đã bản thân đọc sửa bản thảo), The Training of Zen Buddhist Monk (1934), An Introduction to Zen Buddhism (1934), Manual of Zen Buddhism (1935), Zen Buddhism and Its influence on Japanese Culture (1938).

Năm 1936, như đã nói ở phía trước, Suzuki sang Hoa Kỳ và Anh quốc, và đã diễn thuyết tại hai nước ấy.

Trong thời thế chiến, Suzuki sống yên tịnh ở Kamakura (Khiêm Thượng). Sau đại chiến, công ty Rider khởi sự xuất bản toàn bộ tác phẩm bằng Anh văn của Đại sư cho Hội Phật giáo Luân Đôn. Năm 1949, ông lại xuất dương qua các nước Tây phương. Sau hội nghị các triết gia Đông Tây tại Hạ uy di, ông giảng dạy tại Đại Học Đường Hạ uy di một năm. Đến 1950, ông sang dạy tại Claremont College ở tiểu bang California, rồi đi chu du các trường Đại học Hoa kỳ dưới sự bảo trợ của cơ quan Rockefeller.

Đại sư Suzuki bị những thiền gia “cố chấp” chỉ trích về lập trường dễ gây tranh luận mà Đại sư đã nêu lên trong quyển Zen and Japanese Buddhism (Thiền và Phật giáo Nhật bản), xuất bản năm 1958, ngay ở chương đầu, với câu hỏi: “Zen là gì? Không phải là Thiền định mà là Bát Nhã”. Chương ấy không binh vực sự chối bỏ công phu thiền định như một một việc làm không cần thiết, như có người chủ trương, mà thật ra nhấn mạnh về sự khai mở trí Bát Nhã là một hình thái trực giác cao tột sẵn có trong mỗi người chúng ta. Bát Nhã cao quí hơn trạng thái tập trung tư tưởng là Thiền định, mà đặc điểm là đưa đến sự đánh thức một sức mạnh tâm linh cao độ và tiếp xúc ngay với cái Chân Thể. Ở đây, Suzuki chỉ trình bày lập trường của Lục Tổ, và về sau Đạt sư còn nói lại trong quyển The Zen Doctrine of No Mind (Thiền hay Pháp môn Vô Niệm), xuất bản năm 1949 (London, Rider), và về sau nữa còn đề cập đến trong những tập thuộc bộ Zen Buddhism do William Barrett xuất bản tại Nữu Ước năm 1956. Đại sư Suzuki đã kết luận:

“… Cứ theo các lời tuyên thuyết ấy (liên hệ đến việc Thiền tông nhấn mạnh về điểm cần phải đạt Huệ) thì rõ ràng Thiền tông không tự tách ra khỏi công phu nhập định, và cái mà Thiền tông muốn đề cao là việc cần phải đạt đến giác ngộ, và như vậy thì Thiền tông chẳng những theo sát gương sáng của đức Phật mà còn đi đúng với giáo pháp của Ngài. Không ai chối cãi rằng Thiền định là một bước quan trọng về hướng chứng Huệ, nhưng Thiền tông không tin rằng Thiền định là phương tiện duy nhất để đi đến mức cứu kính chung cho toàn bộ pháp môn Phật giáo.”

Để tỏ rõ quan điểm của mình, Suzuki đã nói trong mấy trang sau của Zen Buddhism: 

“Trước Lục Tổ Huệ Năng, Thiền định có vẻ như cách biệt với Bát Nhã (hay Huệ). Tuy không phải không biết sự quan trọng của Bát Nhã, các Tổ thừa kế hình như vô tình đã tự khép mình cho thích hợp với truyền thống Ấn độ. Sự thật, các Tổ không bao giờ xem thường Bát Nhã, song le các Tổ không thể nhấn mạnh một cách rõ rệt, có ý thức và quyết liệt như Lục Tổ, về sự tối quan trọng của Bát Nhã đối với Thiền định”.

Tuy một đôi khi Suzuki được xem như người đối lập với “khối” Thiền gia chủ trương lấy Thiền định làm phương tiện đạt Huệ quan trọng nhất, Đại sư vẫn là người có tọa thiền. Chính tôi đã nhờ Bác sĩ Stunkard mà biết được câu truyện sau đây. Stunkard là bác sĩ tư của Suzuki; nhân một buổi khám bệnh thường lệ, ông không khỏi nhận thấy các sớ thịt phía dưới bụng của Đại sư nổi lên cứng rắn, giống như ở các nhà sư tọa thiền. Bác sĩ hỏi tại sao vậy, Suzuki trả lời: “Đó là một thói quen”.

Trong quyển “Early Memories”, Suzuki đã nhắc đến câu truyện sơ ngộ với “thói quen” ấy. Một ông giáo của trường Suzuki học lúc nhỏ là một pháp tử của Kosen lmagita Roshi. Một hôm, nhà mô phạm ấy, lúc đó đã già, tặng cho chú nhỏ Suzuki một bản sao sách Hakuin’s Orategama (hiện nay đã được Tiến sĩ Shaw dịch ra Anh văn dưới nhan đề “The Embossed Tea-Kettle” (Cái Ấm Chè Điêu Khắc). Vì muốn hiểu rõ hơn ý nghĩa của sách, Suzuki quyết định đi tìm Thiền sư Setsumon ở cách đó khá xa. Nhắc lại việc này, Đại sư Suzuki viết:

“Tôi tới bái yết Thiền sư mà không được một lời giới thiệu của ai cả, nhưng các vị tăng ở chùa sẵn lòng thâu nhận tôi ngay. Các vị nói với tôi rằng Thiền sư đi vắng, tuy nhiên tôi có thể tập tọa thiền trong một phòng của chùa nếu tôi muốn. Các vị dạy tôi cách ngồi, cách thở, rồi bỏ tôi ngồi một mình sau khi dạy tôi cứ thế mà tiếp tục. Sau một đôi ngày, Thiền sư trở về, họ đưa tôi đến yết kiến Ngài. Thuở ấy tôi thật tình không biết gì về Thiền và không có một ý niệm gì về nghi thức của nhà Thiền. Họ chỉ dặn tôi ra bái yết Thiền sư và tôi tuân lời, mang theo bản sao sách Orategama.

“Tập sách này được bố cục bằng một văn phạm giản dị, nhưng có vài danh từ khó về Thiền tông mà tôi không hiểu được, nên tôi nhờ Thiền sư cắt nghĩa. Ngài tỏ ra giận dữ và nói với tôi: “Sao ngươi lại hỏi ta những điều ngu xuẩn như thế?” Tôi bị đuổi về phòng không được một lời chỉ giáo nào khác hơn là lịnh tiếp tục ngồi kiết già…”

Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với Đại sư Suzuki là tháng 8 năm 1950. Khi được Nyngen Senzaki, một đệ tử của Soyen Shaku cho biết là tôi đang có mặt tại California, Đại sư bèn gọi tôi đến và tôi đã gặp Đại sư vào một buổi xế chiều. Một điều làm cho cả Đại sư và ngài Nyngen Senzaki lưu tâm đặc biệt là việc Sư Sokei-an (Tào Khê Am) liễu đạo bất ngờ vào năm 1945. Mặc dầu Sư lúc ấy đã 63 tuổi, Suzuki và Senzaki vẫn tỏ ý tiếc rằng sư đã qua đời quá sớm.

Đến mùa thu năm ấy, Suzuki đến Nữu Ước và tại đây, Ô. Lawrence B. Chrow đã sắp đặt cho Đại sư có dịp diễn thuyết 12 lần ở Church Peace Union, nhờ sự trung gian của Ô. Atkinson cầm đầu tổ chức ấy. Nhơn tiện cũng nên biết rằng đây là nhóm Cơ đốc ở Hoa kỳ lần đầu tiên đã đón tiếp một diễn thuyết gia của Phật giáo. Một nhóm khác, thuộc phái Quaker ở Pendle Hill, tiểu bang Pensylvania, cũng đã tỏ vẻ để ý đến Đại sư Suzuki và những người Phật tử khác từ Nhật Bản đến.

Nhờ có buổi diễn thuyết của Đại sư kéo dài đến ngày 13-1-1951 mà tập hợp được một số thính giả để về sau tổ chức một cuộc hội thảo tại Đại học đường Columbia. Đây là tiểu tổ đầu tiên cho công việc phổ biến Thiền tông từ hàng thượng lưu trí thức (bác sĩ thần kinh học, nghệ thuật gia, văn sĩ, tư tưởng gia) đến hàng “tân hiện sinh” (beatniks) và sinh viên. Tôi có dự thính vài buổi thuyết trình tại Đại học đường Columbia, và đề tài chính vẫn là đề tài mà Đại sư Suzuki đã thuyết trình, vào lần thứ hai, cho Thiên Hoàng nghe hồi năm 1946, tức là vấn đề: “Yếu lý Phật giáo”.

Đại sư nóỉ: 

“Lâu đài nguy nga của Phật giáo được xây dựng trên hai trụ cột căn bản: Đại Trí, hay Bát Nhã ba la mật (Maha Prajna), và Đại Bi (Maha Karuna).” 

Những lời sau đây mà Đại sư đã tâu lên Thiên Hoàng có thể làm cho các thính giả Tây phương hiểu được phần tinh yếu của cái mà Đại sư muốn nhắn gửi đến họ:

“Cứu cánh của triết lý Đạo Phật là phải đạt đến quan niệm “sự sự vô ngại” của Hoa Nghiêm tông. Theo tôi hỉểu, đó là mức độ cao nhất của tư tưởng Đông phương mà trí huệ của người Phật tử phải đạt đến, và đó cũng là phần đóng góp của nước Nhật cho nền triết học thế giới.” (Bà Sasaki có viết một toát yếu về lý thuyết nói trên trong một tập sách nhỏ nhan đề “Zen, a Religion” (Thiền, một Tôn giáo).

Trong sáu năm tiếp theo đó Suzuki đã trở thành một danh nhân thế giới, hình ảnh được đăng trên các báo và được báo Time tán dương. Con người vóc bé nhỏ, mang pháp hiệu “Daisetz” (Đại khiêm tốn), đã thu hút được óc tưởng tượng của người phương Tây, làm cho họ cảm thấy nơi Đại sư sự thể hiện hình ảnh một vị Thiền sư mà Suzuki đã gắng tạo ra trong tâm trí họ.

Tạp chí The Sciences, xuất bản tháng ba năm 1966 đã thuật cách Đại sư hành thiền và câu truyện được công chúng thừa nhận.

Sau đây một đoạn bài báo của The Sciences:

“Trạng thái tâm thức mà các nhà huyền bí gọi là Thiền định, tánh chất nó như thế nào? Trạng thái ấy khác với trạng thái tỉnh giấc hay ngủ mê ra sao?

“Sự thâm hiểu các dị biệt ấy có thể trình bày nương vào một giai thoại sau đây về Đại sư Suzuki. Năm 86 tuổi, Đại sư có dự thính một buổi diễn thuyết về Thiền và Phân tâm học. Trong một đoạn quá đặc biệt kéo dài, Đại sư ngồi yên lặng, đôi mắt nhắm lại, xem vẻ như đã ngủ. Đột nhiên, một ngọn gió nhẹ thổi qua, làm các tờ giấy trên bàn bay lung tung xung quanh các người ngồi bên cạnh đang mở mắt tỉnh táo. Chớp nhoáng, tay Đại sư, đưa ra bắt các giấy ấy và đặt lại trên bàn cẩn thận, trong lúc các người ngồi cùng bàn không có một phản ứng nào kịp thời.”

Hiện nay, cái tài thiếp ngủ bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào của Đại sư Suzuki được nhiều người Nhật và một ít người nước khác chia sớt. Mặc dầu khả năng ấy được các nhà nghiên cứu mô tả như là “nhập định”, nó chắc có chỗ liên quan với một hiện tượng được Gay Gaer Luce và Julius Segai thuật lại trong một quyển sách gần đây tựa là “Sleep” (Giấc ngủ). Hai tác giả ấy đã tự hỏi phải chăng cái tài ngủ dễ dàng và tùy ý muốn ấy là một đặc ân trời ban cho ai nấy được. Họ còn nói rằng dân của bộ lạc man rợ Yahagans có thể thiếp ngủ dễ dàng, nhưng vẫn tỉnh táo để quan sát. Những dân của bộ lạc ấy muốn ngủ là ngủ, nhưng cũng tỉnh giấc mau chóng. dễ dàng và tỉnh táo ngay. Mặc dầu ngủ, họ như tuồng theo dõi các sự việc, để rồi khi thức tỉnh, họ tỏ ra hiểu biết tường tận tất cả những gì đã xảy ra trong lúc họ ngủ.

Một giai thoại trong buổi diễn thuyết do Ô. Erich Fromm tổ chức tại Mễ tây cơ và về sau được ông viết lại trong quyển Zen and Psychoanalysis (Thiền và Phân tâm học), mà tôi thích thú rất nhiều đã được Ô. Albert M. Stunkard, Khoa trưởng Thần Kinh Học tại Đại học đường Pensylvania và là người đã học Thiền khá lâu, kể lại như sau. Có người hỏi ý kiến của Đại sư về xu hướng của con người muốn đi ngược dòng thời gian để trở thành đứa nhỏ ngồi trên đầu gối mẹ, rồi đứa bé ấy lại muốn nhỏ hơn nữa để nằm trong bụng mẹ như lúc còn trong thai. Theo lời thuật lại, Đại sư đã trả lời như sau: 

“Tôi đang tưởng đến con người mong trở thành một đứa nhỏ ngồi trên gối mẹ, rồi mong trở thành một hài nhi, và tôi đang tưởng đến đứa hài nhi mong được nằm trong lòng mẹ và tôi đang… Khoái thay cho hài nhi ấy!”

Từ tuổi tứ tuần, Suzuki đã nổi danh, nhưng ông chưa được lúc nào gọi là giàu có. Sống trong cảnh hàn vì từ lúc nhỏ, Suzuki đã phải nghỉ học một dạo vì không có tiền trả học phí. Sau đó, nhờ một người anh giúp đỡ, ông đã đi học lại. Lúc ấy, trong một cuộc mạn đàm với hai người bạn thân, Kitaro Nishida và Yakichi Ataka, cả ba đều bàn tính đến tương lai. Nishida có tham vọng trở nên một nhà triết học (mộng này đã thực hiện và ông đã thành một nhà triết học danh tiếng), Suzuki thì muốn thành một văn sĩ, còn người bạn thứ ba thì muốn thành một nhà kinh doanh giàu có để giúp hai bạn kia. Trên thực tế, Yakichi Ataka đã giữ lời hứa. Trong bài tựa sách Essays đợt I, Suzuki đã tâm sự rằng việc xuất bản thành sách những tác phẩm đầu tiên này là nhờ sự tận tình ủng hộ về vật chất lẫn tinh thần của Yakichi Ataka ở Osaka, người bạn cố tri đã không quên lời hứa nửa thật nửa đùa của lúc thiếu thời, là ra đời, anh em giúp đỡ nhau.

Trong bài tựa ấy, Đại sư Suzuki đã cho mục đích của ông khi viết về Thiền như là một “cố gắng thô sơ để trình bày Thiền theo quan điểm thông thường của thế nhân và như một đạo thống trực tiếp của lòng tin Phật tử hợp với lời tuyên bố của đức Phật, hay đúng hơn, hợp với sự tu chứng của đức Phật. Tôi hy vọng đã thắng phục được một vài khó khăn thường làm cho chúng ta không thấu đáo được tư tưởng của Thiền tông. Tôi đã thành công đến mức độ nào hay đã thất bại hoàn toàn? Lẽ đương nhiên, xin để bạn đọc phê phán.”

Riêng tôi là người đã lãnh hội được phần nào tám mươi năm Thiền nghiệp của Suzuki, tôi nghĩ chỉ có thể đem lời của Zuigan Goto Roshi nói với Vanessa Coward để kết luận:

“Ông đã dẫn nhiều người đến cửa”.

Bài của Mary Farkas
Tạp chí Từ Quang
(số 170-171 và 172 tháng 10, 11, 12-1966)
http://thientrithuc.org/2017/10/29/phu-luc-3/

Ý kiến của người post bài:

Theo tinh thần của bài về công án Vô, câu “giải công án” có lẽ nên đổi là “thấu công án”, tức là nhờ công phu hành trì miên mật mà “thấu”, mà ”bùng vỡ” chứ không phải là nhờ sự suy nghĩ mà “giải” được.

ĐPK

“Mười Bốn Điều Răn Của Phật” là Giả Mạo

Hỏi:

“Tôi đọc được thư của một người mẹ gửi cho con trên một trang blog nói về 14 điều dạy của Đức Phật. Sau khi xem tôi thấy làm lạ, những điều này không thấy được nhắc tới trong kinh sách. Xin quý ban biên tập cho biết ý kiến.

Dưới đây là nguyên văn “14 điều dạy của Đức Phật” đó:

1.- Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình.

2.- Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.

3.- Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.

4.- Bi ai lớn nhất của đời người là ganh tỵ.

5.- Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.

6.- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu.

7.- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ty.

8.- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã.

9.- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng.

10.- Tài sản lớn nhất của đời người la sức khỏe, Trí Tuệ.

11.- Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.

12.- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung.

13.- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết.

14.- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.

(Trích lời kinh Phật)

(GHI CHÚ CỦA BAN BIÊN TẬP TVHS (trong quyển sách:

Nguồn: http://old.thuvienhoasen.org/tmd-tongiaovadantoc1-01.htm

14 điều răn của Phật” trên là tên của một bản văn được truyền tụng không có nguồn gốc rõ ràng. Theo Đại đức Thích Nhật Từ,

14 điều này vốn được lưu truyền tại chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc. Không có bài kinh nào trong các bộ Kinh tạng Pa-li, A-hàm kinh và kinh Đại Thừa chứa đủ 14 điều này. Tác giả có thể là các nhà sư chùa Thiếu Lâm và họ đã biên tập, trích dẫn ý tưởng từ các bản kinh, và tập hợp lại theo trật tự mình đặt ra. Việc truy tìm lại nguyên gốc các câu riêng lẻ từ kinh Phật là điều rất khó. Các bản dịch tiếng Việt đã có một số điểm lệch so với nguyên tác. Ví dụ, “điều răn” là cách dịch không chính xác từ giới (nguyên ngữ Śīla trong tiếng Phạn với nghĩa “giới” của Phật giáo, hay “điều khoản đạo đức”).

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Nghiên cứu nội dung cái gọi là “14 điều răn của Phật” này, tác gỉa Đoàn Đức Thành trong một email phổ biến trên mạng cho biết nó tương tự như bản văn “Nhân Sinh Thập Tứ Tối” (14 Cái Hay Nhất của Đời Người) của Trung Quốc, chỉ khác 2 điều:

(1) Điều 6 Trung Quốc viết là: “Tội lỗi lớn nhất của đời người là lừa dối chính mình”,

(2) Điều 10, Trung Quốc viết là “tài sản lớn nhất của đời người là sức khoẻ”.

Tác giả cũng đề nghị nên thay tiêu đề “14 ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT” bằng “14 CÁI HAY NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI” và bỏ dòng “TRÍCH LỜI KINH PHẬT”.

Dưới đây là phóng ảnh bản của Trung quốc:

(ĐOÀN HỌC GIẢ HỌC VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ VIỆT NAM sưu tầm tại Chùa Thiếu Lâm Trung Quốc)

https://thuvienhoasen.org/images/file/s1ZKz5tG0QgBALoL/muoibondieuphatday-02.jpg” alt=”” border=”0″ />

Hình bên trên: Một bản có tên “14 điều dạy của Phật”, dạng treo tường

(Ảnh: http://vi.wikipedia.org)

;”>

Dưới đây là ý kiến của cư sĩ Hiển Chánh:

So sánh với lời Phật dạy trong kinh điển thì nhiều điều trong số 14 điều này ý nghĩa khác hẳn ý trong kinh Phật, thí dụ:

Câu thứ nhất : Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình

Trong kinh Pháp Cú, phẩm Phật Đà, đức Phật dạy:

182. “Khó thay, được làm người,

Khó thay, được sống còn,

Khó thay, nghe diệu pháp,

Khó thay, Phật ra đời!”

Ngài cũng dạy:

“Thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là được làm người. Thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là được Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh đẳng giác, thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là Pháp và Luật này do Thế Tôn thuyết giảng, chiếu sáng trên đời.” (Tương Ưng V, 450 – 460).

Vậy “được làm người” là một điều tốt, vì nhờ đó mà người ta tu hành được, không thể coi là “kẻ thù”.

Câu thứ 2 : Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.

Dối trá là một điều xấu mà trong Ngũ Giới, nó đứng hàng thứ 4, Giới Vọng Ngữ gồm:

a. không nói dối,

b. không nói đâm thọc,

c. không nói thô lỗ cộc cằn và

d. không nói nhảm nhí.

Nhiều điều khác như giết người, trộm cắp, tà dâm, còn do “ngu dốt” hơn nhiều.

Câu thứ 3 : Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.

“Tự đại” chỉ là Ngã Mạn, một trong 6 phiền não căn bản gồm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến, không phải là “thất bại lớn nhất”.

Phải là những điều đáng tiếc rất lớn như đã được là một tu sĩ mà lại phá giới hoặc lạc vào đường tà, để “lỡ một kiếp người” thì mới là thất bại lớn nhất.

Câu thứ 4 : Bi ai lớn nhất của đời người là ganh tị.

Ganh tị là một trong những tật xấu, nằm trong 6 phiền não căn bản. Ai cũng thấy trong cuộc đời thường ngày, có biết bao nhiêu chuyện xảy ra, “bi ai” hơn nhiều.

Câu thứ 5 : Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.

Thế nào là “Đánh mất mình?”. Nếu “mình” đây là “Ngã” thì sự làm mất được khái niệm về “Ngã Chấp” là một thành công trong tu hành đạo Giác Ngộ Giải Thoát chứ, sao lại cho là “sai lầm”. Vô Ngã là một trong Tam Pháp Ấn, là ba điểm cốt tủy, quan trọng, dùng để đối chiếu Chân và Giả.

6.- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu.

7.- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ty.

8.- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã.

9.- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng.

10.- Tài sản lớn nhất của đời người la sức khỏe, Trí Tuệ .

Năm câu này thuộc loại “túi khôn muôn đời”, không cần đến trí tuệ của bậc Đại Giác để phát biểu

Câu thứ 11.- Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.

Nhà Phật nói “tình sanh, trí cách”. Tình cảm làm cho con người mất khách quan, sáng suốt, níu giữ con người trong chốn trần ai Tham Sân Si, không phải là điều nhà Phật khuyến khích.

Phật dạy “Vô duyên Từ, Đồng thể Bi”, là lòng trắc ẩn, bi mẫn, thương xót toàn thể chúng sinh bình đẳng, không phân biệt có, hay không có tình cảm. Tu hành là để xóa bỏ tình cảm riêng tư để thay vào đó là lòng bi mẫn, trắc ẩn, thương xót tất cả chúng sinh.

Câu thứ 12.- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung.

Khoan dung nằm trong đức Nhẫn Nhục, là một trong Lục Độ, là 6 con đường để giải thoát, không là “lớn nhất”.

Câu thứ 13.- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết.

Biển “hiểu biết” mênh mông, không thể phân biệt hơn hoặc kém. Đệ tử Phật là Châu Lợi Bàn Đà Dà vì quá chậm lụt, ít hiểu biết, Phật dạy chỉ chú tâm vào hai chữ “chổi quét” mà đắc A La Hán. Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ là một tiều phu, mà nhờ công năng tu hành, trở thành Tổ thứ sáu của Thiền Tông.

Phật dạy:

Chư ác mạc tác,

Chúng thiện phụng hành,

Tự tịnh kỳ ý…

Đặc điểm quan trọng, cốt tủy của đạo Phật là “Tự tịnh kỳ ý”, tự thanh tịnh tâm mình, không phải là chất đầy kiến thức.

Câu thứ 14.- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí.

“>Đức hạnh “Bố thí” trong nhà Phật là một trong Tứ Vô Lượng Tâm, là hạnh Xả. Vì thương xót chúng sinh thực hành “hạnh xả bỏ” và để bài trừ thói xấu bần tiện, nắm giữ, là nguyên nhân gây nghiệp, trả quả báo triền miên trong luân hồi.

Bố thí vì từ tâm, vì lòng thương trải rộng tới muôn loài, không phải là hành động vì cái tôi của mình, là hành động vị kỷ không phải quan điểm của nhà Phật.

Lời Phật đều phải nằm trong Kinh Phật. Nếu ai cũng tùy tiện, tự sáng tác, rồi gán là “Lời Phật”, thì đạo Phật sẽ bị biến dạng không biết tới đâu mà lường.

Theo “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia”:

“14 điều răn của Phật là những điều được nhiều người Việt truyền tụng, xem như trích trong kinh Phật. Tại chùa Trấn Quốc hiện có ghi lại các điều này. [1]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng những điều răn này có thể tìm thấy ở chùa Thiếu Lâm[2]….”

(Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư Mở)

Câu “...những điều răn này có thể tìm thấy ở chùa Thiếu Lâm” không có giá trị về mặt chứng minh đây là lời Phật.

Từ khi Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 1 tháng 10 năm 1949, Trung Quốc đã theo chủ nghĩa cộng sản vô thần. Không những thế, sau khi đã xảy ra vụ cái gọi là “cách mạng văn hóa” do bọn Tứ Nhân Bang gồm: Giang Thanh (vợ thứ tư của Mao Trạch Đông), Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn cầm đầu, giết và bỏ tù giới trí thức, tàn phá đền đài, chùa chiền, đốt xé kinh sách, làm tan hoang cả nước Tầu, gây kinh hoàng cho dân Trung Quốc trong suốt 10 năm trời, từ năm 1966 đến năm1976, tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa, xã hội, … vân vân … , với mục đích đánh bật nền văn hóa Trung Hoa tận gốc rễ, thì câu mơ hồ “những điều răn này có thể tìm thấy ở chùa Thiếu Lâm”, có gì đáng tin cậy là “lời răn của Phật”??? 

>Hiển Chánh (aka Liên Hương)

06/07/2011

htps://thuvienhoasen.org/a12218/muoi-bon-dieu-ran-cua-phat-la-gia-mao

 

Trung quán luận: phá tà hiển chánh




Bồ tát Long Thọ viết rất nhiều sách, nhưng bộ sách căn bản chuyên về tánh Không là bộ Trung quán luận (Mùlamadhyamakakàrikà; Học thuyết Trung đạo). Còn có hai bộ luận khác bàn về tánh Không hiện lưu hành ở Tây tạng là Lục thập tụng Như lý luận (Yuktisasthikà-kàrikà) và Thất thập tụng Không tính luận (Sunyatàsaptatikàrikà).

Bộ Trung quán luận gồm 27 phẩm, 446 bài tụng (tính bốn câu một bài; trong bản Phạn ngữ con số bài tụng nhiều hơn, 450 bài), bao quát hầu hết các vấn đề liên quan đến thế giới luân hồi và thế giới giải thoát. Bồ tát Long Thọ không những bác bỏ một số kiến giải sai lầm của trường phái A tì đàm hay của các triết gia kể chung, mà còn bác bỏ tất cả những quan niệm duy thức và đa nguyên để gián tiếp thiết lập học thuyết nhất nguyên về tánh Không (Sùnyavàda; Không luận).

Trung quán luận cũng là một trong ba tác phẩm căn bản chuyên về học thuyết Trung đạo của Tam luận tông ở Trung Hoa và Nhật bản. Hai tác phẩm kia là Thập nhị môn luận (Dvàdasà-dvàra) cũng của Bồ tát Long Thọ, nhằm kiểu chính những sai lầm của chính các nhà Đại thừa và Bách luận (Satasàstra) của Đề bà(Arya-deva), đệ tử của Ngài, chủ đích bác bỏ những tà kiến của Bà la môn giáo. Vì Trung quán luận quá thiên trọng về duy tâm luận phủ định, nên thường bị hiểu lầm là chủ trương hư vô luận (nihilism). Khác với Trung luận dùng biện chứng phủ định để thuyết minh lý chân không, trong Đại trí độ luận là bộ luận giải thích kinh Đại Phẩm Bát nhã, Bồ tát Long Thọ giảng về lý thật tướng diệu hữu một cách xác quyết hơn. Vì thế hai bộ luận này bổ túc cho nhau đối với ai muốn thông hiểu tư tưởng Không của Bát nhã.

Trung quán luận sử dụng phương pháp biện chứng không những nhằm đả phá triệt để mọi vọng tưởng hý luận và mê lầm tà kiến để hướng dẫn nhận thức giáo lý tánh Không mà thực ra còn có mục đích giáo hóa chỉ đường tu tập để thực chứng trí Bát nhã nữa. Nguyên bản Phạn ngữ hiện vẫn còn tồn tại. Bản Hán văn do Cưu ma la thập (Kumàrajiva) dịch mang tiêu đề Trung quán luận. Chữ Madhyama của tiếng Phạn không có nghĩa của chữ “quán”. Chữ “quán” thêm vào đã thành một danh từ thông dụng của Hán văn và làm sáng tỏ học thuyết Trung quán trên khía cạnh thực hành.

Tuệ Sĩ nhận xét rằng Ngài La Thập với cách chọn lựa tiêu đề như vậy đã nói lên đầy đủ ý nghĩa của triết lý Trung quán. Điều này “phải kể là La Thập đã có công lớn nhất trong việc phát huy triết lý Trung quán”. Tuệ Sĩ giải thích, “Khi Trung được khai hiển và chỉ thị bởi Luận, thì thể ngộ và thể nhập phải do thực hành. Như thế, ở phương diện thực hành, Trung như là quán cảnh, là đối tượng được hướng đến. Trong phương diện thực hành này, vì bấy giờ Trung là đối tượng quán cảnh, nên thực tại sẽ dễ dàng bị bóp méo, và cố nhiên nó sẽ mất ý nghĩa là Trung đó. Như thế quán trí phải được chuẩn bị tất cả những điều kiện cần thiết để có thể quán chiếu được Trung đạo quán cảnh”.

Nếu ví với sự thể hiện ba phương diện của Bát nhã trong sự tựu thành con đường thể nhập Tuyệt đối, thời Trung tương ứng với thực tướng Bát nhã; Quán tương ứng với quán chiếu Bát nhã; và Luận tương ứng với văn tự Bát nhã.

Vì “Tuyệt đối” không thể định nghĩa cho nên tánh Không không phải là một định nghĩa về thực tại mặc dầu khi nói đến tánh Không ta thường có cảm tưởng bản tánh của thực tại là Không. Nếu bản chất hiện thựclà Không thời hóa ra ta đã nắm được trọn vẹn thực tại trong tay và mất hết hứng thú tu tập tiến đến cảnh giới tự chứng của Phật. Trung quán luận cho rằng đức Phật thuyết về pháp Không như là phương tiện đối trị và đã tuyên thuyết giáo lý của mình cho chúng sinh bằng phương tiện Nhị đế. Chính theo tục đế mà đức Phật giảng rằng tất cả pháp đều có là do nhân duyên; nhưng theo chân đế thì tất cả các pháp đều không, nghĩa là bản tính của tất cả các pháp là không có tự tánh.

Mặt khác, đối với sự vật, không nên quan sát và phân tích theo lối nhị biên, chủ đối với khách, tự đối với tha, nhân đối với quả, v… v… , mà trái lại cần phải áp dụng phương pháp Nhị đế, nghĩa là dựa trên hai lập trường chân đế và tục đế. Trung luận đã đứng trên lập trường chân đế để phá sự quan sát và phân tích sai lầm của Tục đế. Bởi vậy Trung luận muốn ta hiểu rõ Nhị đế, tục đế và chân đế, là những diệu dụng của phương tiện và trí tuệ.

Hiểu rõ tục đế chính là hiểu rõ những đặc tính của ngôn ngữ, vai trò và giới hạn của nó. Sử dụng ngôn ngữ mà không hiểu rõ sự tương quan giữa tên gọi của hiện thực và bản thân của hiện thực là nguyên nhân của mọi hý luận (prapanca). Hý luận ở đây có nghĩa là: (1) mệnh đề phát biểu, (2) ý niệm hay quan niệm, (3) nghiệp phát biểu, (4) sự thể được phát biểu, và (5) toàn thể thế giới hoạt dụng của ngôn ngữ tức là cấu trúc bao gồm hết thảy bốn nghĩa vừa kể và cả tri lượng nữa.

Hý luận sinh ra bởi tại không hiểu lý duyên khởi: “cái này có thì cái kia có; cái này không thì cái kia không; cái này sinh thì cái kia sinh; cái này diệt thì cái kia diệt”.

Hý luận phát xuất từ nhận thức điên đảo do vô minh và khát ái sinh ra, lầm cái không có thành cái có: vô thường mà cho là thường, khổ đau mà cho là lạc thú, vốn không có cái ta, cái của ta mà chấp là có ngã, có ngã sở, các pháp đều bất tịnh mà cho là tịnh.

Lại có khi nói hết thảy các pháp đều không, không có gì, người tà kiến lại chấp thủ hý luận về tướng không của các pháp. Bài tụng Trung luận, XXII.15 nói rõ:

“Đức Như Lai đã siêu việt qua mọi hý luận, thế nhưng con người cứ sanh khởi ra hý luận. Vì hý luận phá hủy tuệ nhãn nên không thể thấy Phật.”

Do đó, tiêu diệt hý luận (nisprapanca) là cốt để đoạn trừ nguồn gốc của mê hoặc phiền não. Trung luận trình bày rất chi tiết cặn kẽ vấn đề tiêu diệt hý luận trong suốt hai mươi bảy phẩm.

Cứu cánh “vô hý luận, ngôn vong lự tuyệt” chỉ thấu đạt khi đặc tính của ngôn ngữ cũng như sự tương quan giữa ngôn ngữ và thực tại được minh giải bằng phê bình theo thuyết tánh Không. Đó là ý nghĩa của bài tụng Trung luận, XVIII.5:

“Nghiệp và phiền não diệt nên gọi đó là giải thoát. Nghiệp và phiền não là những cái không có thật. Một khi thâm nhập tánh Không (nhập Không) thì mọi hý luận đều bị tận diệt.”

Phương pháp phê bình theo thuyết tánh Không dựa trên những tương quan nhân quả biện chứng hay trên những tiến trình dịch hóa pháp. Chân lý chỉ có thể đạt được bằng phủ định hay bài bác các tà kiến và những sai lầm. Phá và chỉ có phá mới có thể dẫn đến cứu cánh chân lý.

Nếu căn cứ trên nhận thức luận để giải thích về thế giới hiện tượng thời bất luận kiến giải nào nhìn theo thuyết tánh Không cũng không ngoài sự nhận lầm cái không có làm có, cho nên, hết thảy rốt cục cũng chỉ là không. Không những thế mà thôi, đến ngay cái biểu tượng của cái không cũng lại là không nốt. Chủ ý của Trung quán luận là muốn đem thuyết Chân Không của Bát nhã thành lập trên phương diện biện chứng luận. Theo Bồ tát Long Thọ, chân không có nghĩa là hết thảy hiện tượng chỉ là hiện hữu tương quan, do đó không có tự tính. Tuy vô tự tính nhưng vạn pháp vẫn tồn tại hiện hữu. Đó là diệu hữu. Chân không và diệu hữu không bao giờ xa lìa nhau. Bởi vậy, cái không của Bát nhã không phải là cái không trống rỗng tiêu cực, mà là cái chân không diệu hữu. Liền với cái chân không phủ định luôn luôn có cái diệu hữu khẳng định theo sau.

Qua bài tụng Trung luận, XXIV.18 được xem như có giá trị mô tả tiến trình tu chứng:

“Các pháp do duyên khởi (pratìtyasamutpàda), nên ta nói là Không (sùnyatà), là Giả danh (upàdàya-prajnapti), và cũng chính là Trung đạo (madhyamà pratipat)”, Bồ tát Long Thọ xác nhận rằng duyên khởi là đồng nghĩa với Không, với Giả danh, và với Trung Đạo.

Ngay ở đầu bài tụng các pháp được nói đến là do duyên khởi ai ai cũng kinh nghiệm được trong đời sống hằng ngày, một đời sống mà bản chất không mấy ai thấy được là Không. Lý duyên khởi có thể giải thích sự hiện hữu của vạn pháp vô tự tính, đưa đến xác tín rằng duyên khởi loại trừ cực đoan chấp không. Vậy tánh Không bao hàm Duyên khởi. Mặt khác, với duyên khởi dùng làm lý lẽ, Trung luận áp dụng biện chứng pháp bác bỏ cực đoan chấp hữu cho rằng sự vật là có tự tính và biệt lập với sự vật khác. Như vậy Duyên khởi bao hàm tánh Không. Do đó mà tánh Không và Duyên khởi đồng nghĩa.

Ngôn ngữ vô tự tính vì phụ thuộc rất nhiều điều kiện. Sự có mặt của nó là do sự có mặt của sự thể. Sự thể cũng vô tự tính. Có cái này là vì có cái kia. Nói về một sự thể là nói qua tên gọi của nó. Tên gọi đó là giả danh vì tên gọi đó chỉ biểu tượng cho sự thể chứ không phải bản thân thực tại của sự thể. Ngài Long Thọ nói trong Đại Trí độ luận:

“Lụa tuy không như sừng thỏ lông rùa hoàn toàn không có, nhưng do nhân duyên hội hợp cho nên có, nhân duyên tan rã cho nên không, như đám rừng, như toán quân, các thứ ấy đều là có mà không thật. Ví như người tuy có tên gọi là người mà không thể tìm ra pháp người. Lụa tuy có tên gọi cũng không thể tìm ra lụa thật.”

Duyên khởi có tên mà không thật cho nên duyên khởi là giả danh. Vì vậy khi đặt cái danh vào định thức duyên khởi thời đó là Giả danh, nghĩa là chỉ có trên danh ngôn chứ không có trong thực tế.

Bài tụng Trung luận, I.1 y cứ vào lý duyên khởi nêu ra bốn lý do để phủ định tự thể tức sự thể có tự tính dị biệt. Nếu có tự tính dị biệt thời sự thể không hiện khởi (1) từ chính nó, (2) từ một cái khác, (3) từ cả hai hợp lại, và (4) không do nhân duyên nào cả. Trong trường hợp (1), nếu tự thể sinh ra từ chính nó thời nó chứa đựng hai tự thể là nhân tức chủ thể sinh và quả tức là cái được sinh. Điều này không thể có được. Trong trường hợp (2), nó là một tự thể, cái khác cũng là một tự thể. Đã thừa nhận hai tự thể dị biệt tất không thể nói cái này sinh ra từ cái khác. Trong trường hợp (3), hai tự thể dị biệt không thể phối hợp với nhau được, vì nếu phối hợp thời mỗi một tự thể đánh mất tự tính của chính nó. Trong trường hợp (4) cuối cùng, tự thể mà hiện hữu thời đó là một kết quả. Như vậy hiện hữu đó không thể không có nhân của nó.

Sự thể vì vô tự tính nên hiện khởi do nhân duyên. Vậy vô tính duyên sinh nên duyên sinh là Giả danh. Đằng khác, sự thể hiện khởi do nhân duyên thời không có tự tính dị biệt. Do đó duyên sinh vô tính nên duyên sinh là Không. Đó là ý nghĩa Trung đạo của lý duyên khởi.

Trong câu đầu của bài tụng Trung luận XXIV.18 vừa khi các pháp do duyên khởi được nêu ra, tánh Không phủ định Duyên khởi ngay ở câu thứ hai, nhưng liền khẳng định lại Duyên khởi là Giả danh ở câu thứ ba. Đó là thứ tự diễn tả tư tưởng Không đã thấy được trong “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” của Tâm kinh hay trong ngôn ngữ “tức phi, thị danh” của kinh Kim Cang.

Câu cuối của bài tụng xác định Duyên khởi “chính là Trung đạo”. Đem so với hai danh từ tánh Không và Duyên khởi, thời danh từ Trung đạo có tính cách khẳng định hơn, nhưng tựu trung đó cũng chỉ là một lối phát biểu của Bồ tát Long Thọ để phủ định tính thực hữu của thế giới hiện tượng mà thôi.

Trung đạo là không chấp Có không chấp Không, không khẳng định không phủ định. Theo Trung quán luận, Trung đạo chính là sự chuyển biến từ có Duyên khởi qua không có Duyên khởi tức Không, rồi trở lại có Duyên khởi dưới hình thức Giả danh. Trung đạo di chuyển biện chứng từ khẳng định qua phủ định rồi lại khẳng-định-thanh-lọc-qua-phủ-định. Trung đạo không phải là một điểm ở trong khoảng giữa của hai cực đoan mà là một tiến trình tu tập theo dịch hóa pháp, “đi từ hủy thể đến tướng, hủy tướng đến dụng, hủy dụng đến ngôn từ, và phá hủy ngôn ngữ để chuẩn bị cho thể nhập Tuyệt đối. Tiến trình này có thể tổng quát trong ba giai đoạn: Không, hủy thể; Giả danh, hủy tướng và dụng và ngôn ngữ; Trung đạo, tựu thành con đường của thể nhập.” (Triết học về tánh Không, Tuệ Sĩ).

Mặc dầu chữ Trung (madhyamaka) dùng trong bài tụng XXIV.18 này là nguồn gốc của tên sách Madhyamakakàrikà (Trung quán luận) và mặc dầu chủ ý của Trung quán luận là trình bày thuyết Trung đạo, trong suốt quyển sách chữ Trung đạo chỉ hiện ra rõ ràng một lần ở bài tụng này mà thôi. Một lầnkhác, Trung đạo được đề cập một cách gián tiếp trong bài tụng XV.8 nhắc đến kinh Ca Chiên Diên Thị (Kàtyàyanàvavàda Sùtra), Tương Ưng bộ. Kinh này trình bày về việc đức Phật giáo hóa tôn giả Ca Chiên Diên về chánh tri kiến nên xa lìa cả Vô lẫn Hữu. Đức Phật nói đến Trung đạo:“Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kàtyàyana, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo”.Tiếp theo, đức Phật thuyết minh lý duyên khởi thu gọn trong mười hai nhân duyên dùng làm nền tảng lập cước cho pháp môn Trung đạo của Ngài. Nói cách khác, lý duyên khởi chính là Trung đạo.

Phải chờ đến phẩm XXIV mới thấy rõ quan điểm “Tánh Không của Không hay Không Không” (emptiness of emptiness) của Bồ tát Long Thọ qua quan hệ giữa Không, Giả, và Trung đã được hàm ý trong bài tụng tán khởi. Lý do là trước hết Ngài phải thuyết minh hết thảy mọi pháp đều không, ngay cả cái không cũng không nốt trong suốt hai mươi ba bài tụng đầu. Sau đó tánh Không mới đương nhiên hiển lộ. Trung luận xác quyết tánh Không là bản thể của Duyên khởi và Duyên khởi là hình tướngcủa tánh Không, cả hai đều là lý tính đặc thù của Trung đạo.

Về mặt tu dưỡng, phát triển trí tuệ một cách thích đáng trong dòng tâm thức để liễu tri tánh Không là một phương pháp đối trị vọng tưởng ngã chấp. Nói cách khác, để thấy cái tôi không thực hữu thờicần phải thành đạt thứ trí tuệ hiểu được hình thức bản năng của sự chấp thủ cái tôi. Nhờ thế mới có thể nhổ tận gốc sự chấp ngã theo bản năng tức là cắt đứt gốc rễ của sinh tử. Theo Đại thừa, bồ đề tâm là cửa ngõ duy nhất của con đường đến giải thoát, là pháp tu căn bản để đạt được tuệ quán đặc biệtchứng ngộ tánh Không.

Phương pháp căn bản để thực hiện tư tưởng “chân không diệu hữu” của Đại thừa được nhắc đến một cách rất tha thiết và thành khẩn trong bài văn Khuyến phát bồ đề tâm của Đại sư Thật Hiền do HT Thích Trí Quang dịch và giải. Ở phần tiểu dẫn, Hòa thượng viết: “Đối với người học Phật, phát bồ đề tâm không những là bước đầu mà còn là căn bản, không những là căn bản mà còn là cứu cánh”, và giải thích: “Phát bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề, kế đó phát triển tuệ giác ấy, cuối cùng phát hiện bản thể của tuệ giác ấy là chân như. Giai đoạn trước hết, chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề hàm có hai tính chất mà thành ngữ thường nói là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.”

“Về lý do phát bồ đề tâm, ngoài nỗi thống khổ sinh tử mà mình mục kích và ý thức, có hai việc mà kinh luận đề cập nhiều nhất, đó là tự biết mình có thể làm Phật, và tha thiết hơn cả, nghĩ đến sự suy tàn của Phật pháp.”

Đặc sắc của sự thể hiện tinh thần “thượng cầu bồ đề, hạ hóa chúng sinh” là tuy có hai phương diện nỗ lực, mưu cầu sự giác ngộ cho chính mình và mưu cầu sự giác ngộ cho kẻ khác, nhưng tựu trung chúng cùng một thể, không thể chia ra làm hai mà phải luôn luôn hợp nhất mới hội đủ điều kiện tất yếu để đi đến chỗ hoàn thành cái đại thệ nguyện của Bồ tát. Do đó, một số câu hỏi được đặt ra:

– Làm sao các bực đã thành tựu tuyệt trừ mê lầm ảo kiến về tự ngã, chứng ngộ Phật tánh, và thực hiện giải thoát có thể trở lại lăn lộn và hòa đồng với thế gian đầy dẫy phân biệt, hư vọng, ái dục, và chấp trước?

– Tri thức thường nghiệm và tư duy lượng đoán của con người có khả năng đến mức độ nào để thông đạt sự quan hệ căn bản giữa vọng tâm và tịnh tâm?

– Làm sao giải quyết sự căng thẳng giữa một bên là khuynh hướng muốn mô tả tự tính, tự thể của sự vật và bên kia là ý thức về giới hạn biểu tượng và diễn đạt của ngôn ngữ?

Trung luận giúp ta phần nào tìm thấy kiến giải cho những vấn đề nêu ra trong các câu hỏi đó.

Về mặt giáo hóa nhằm mục đích thành đạt chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng bồ đề, nếu nhìn một cách tổng quát cấu trúc của Trung luận thời chỉ thấy vỏn vẹn bài XXIV.18, một trong số 446 bài tụng, là có đề cập vấn đề “hạ hóa chúng sanh”. Hầu hết các bài tụng khác đều hướng về “thượng cầu bồ đề”, triệt để phủ định để phá chấp và tiêu diệt hý luận trong quá trình tu dưỡng, tích cực phủ định giá trị biểu tượng tiến trình thực tại của ngôn ngữ, và phủ định luôn cả đường lối suy luận thông tục nữa.

Để tìm hiểu Ngài Long Thọ theo lập trường Bát nhã đã căn cứ vào điểm tất yếu nào để phủ định tất cả những tướng sai biệt mà chủ trương tánh Không, Kimura Taiken đưa ra hai lý do. Một là dựa trên nhận thức luận mà cho rằng thế gian này hoàn toàn là biểu tượng của tâm, ngoài tâm ra tất cả đều không. Hai là căn cứ vào nền tảng tất yếu về sự tu dưỡng để thực hiện lý tưởng giải thoát niết bàn mà thấu suốt tất cả đều là không. Tuy nhiên, trên phương diện nhận thức luận cái không tuy phủ định ý nghĩa hiện tượng, nhưng một khi dạt đến diệu hữu thời hiện tượng bị phủ định được sống trở lại với ý nghĩa giả danh. Về phương diện tu dưỡng, cái không tuy phủ định để thấy không có tự ngã nhưng vì thế mà khẳng định thấy không có gì để chấp trước, và do đó phát huy được cái tinh thần hoạt động tự do vô ngại, đúng như kinh Kim Cang đã nói: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”.

Trung quán luận xác chứng rằng luận lý không thể dẫn ta đến Không, nhiều nhất là đến chân trời vô tự tính của thế tục. Trái lại, luận lý muốn có ích lợi phải tuôn ra từ Không. Ngay cả luận lý cũng vô tự tính, nghĩa là thuộc tục đế. Lập trường chủ trương tánh Không vô tự tính cũng vô tự tính nốt. Do đó, mọi cơ sở diễn đạt tư tưởng đều bị hủy diệt. Khi đối phương chỉ trích rằng nếu tất cả đều Không, thời suy luận, giáo pháp, tu tập, và đạo quả đều trở nên vô nghĩa, Bồ tát Long Thọ bảo: “Vì tánh Không mà các pháp được thành lập, nếu không có tánh Không, thì tất cả pháp không thể hình thành.” (Trung luận, XXIV.14)

Trả lời như vậy có nghĩa là gì?

Có nghĩa là phải có khả năng tri nhận tánh Không, nhân duyên của Không tánh, và cả Không nghĩa nữa thì mới thấu hiểu sự hình thành của vạn pháp. (Trung luận, XXIV.7).

Nhờ trí quán Không, càng biết rõ hết thảy hiện tượng đều vô tự tính, càng tuệ tri chân đế là thực tại tuyệt đối tối thượng, thời càng thấy rõ thế gian này chỉ toàn ước định giả tạm, đầy vọng tưởng và phiền não. Không nghĩa bao trùm cái thế gian này của tục đế trong đó ngôn ngữ đã được dùng để mô tả chân đế. Nói cách khác, tánh Không khẳng định vai trò của tục đế là giải thích sự tồn tại của vạn pháp mặc dầu vạn pháp đó không có tự tính. Cái thế gian của tục đế cũng là cái thế giới mà hành giả ngay khi đạt được căn bản Vô phân biệt trí hòa đồng hoạt động độ sinh, hướng dẫn những ai phát tâm bồ đề tu tập thành đạt tuệ giác.

Đoạn văn sau đây trong Nhiếp luận của Vô Trước, HT Thích Trí Quang dịch giải, sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa chân lý Tam đế: Không, Giả, Trung gợi ra trong Trung quán luận.

“Trí vô phân biệt không nhiễm như hư không, là vì (phần gia hành của nó) chuyển được các ác nghiệp cực nặng, nhờ vào sự tin hiểu (chân như vô phân biệt).

Trí vô phân biệt không nhiễm như hư không, là vì (phần căn bản của nó) thoát ly mọi sự chướng ngại, được gọi là thích ứng với sự được và thích ứng với sự thành.

Trí vô phân biệt như hư không, là vì (phần hậu đắc của nó) thường đi trong thế gian mà không bị mọi sự của thế gian làm cho ô nhiễm.”

Ba phần gia hành, căn bản, và hậu đắc của trí vô phân biệt tuần tự ví “như người chưa hiểu luận văn mà muốn hiểu, như người hiểu được, như người hiểu được mà dạy được.”

Trong Trung luận, tiêu diệt hý luận để thượng cầu bồ đề tương ứng với phần gia hành. Thành tựu công trình thực chứng tánh Không tương ứng với chứng đắc Vô phân biệt trí hay Đại trí. Khẳng định lại duyên khởi là giả danh để hòa đồng với thế gian nỗ lực hóa độ chúng sanh tương ứng với chứng đắc Hậu đắc trí.

Như vậy vai trò giáo hóa của Trung quán luận quan trọng nhất là vào lúc hành giả bắt đầu tu tập trí tuệ liễu tri tánh Không. Trên phương diện tu dưỡng, tánh Không của Trung luận là để diễn tả lý tưởng giải thoát và đồng thời chỉ đường tu chứng thị hiện bồ đề. Mọi công trình tu chứng đều nhằm tuệ giác Không tướng hay còn gọi là Thật tướng của vạn pháp. Trong bài tụng Trung luận, XVIII.9, Bồ tát Long Thọ giải thích Không tướng là “tự tri bất tùy tha” tức là chính mình thể nghiệm, không theo luận thuyết của kẻ khác mà tín giải; “tịch diệt vô hý luận” nghĩa là tịch tĩnh, không thể nghĩ bàn, “vô dị vô phân biệt” tức là không sai khác, không phân biệt.

Có hai đường lối quán Không. Một lối là thể nhập trực tiếp tánh Không không thông qua phân tích bằng luận lý và ngôn ngữ. Đó là pháp hành thâm Bát nhã hay pháp chiếu kiến ngũ uẩn giai không của Quán Tự Tại Bồ tát nói đến trong phần mở đầu Tâm kinh. Theo lối thể không quán này, hành giả không quán sát ngoại giới và nội tâm nên thường khi năng lực duy trì tịnh chỉ bị suy giảm, niềm xác tín sẽ trở nên mơ hồ và nghi hoặc sẽ sinh khởi.

Lối thứ hai gọi là tích không quán, tức là dùng quán sát và phân tích để thấy các pháp không tự có mà là do nhân duyên hòa hợp mới có, nghĩa là hiện hữu không có tự tánh. Tâm kinh mô tả pháp này trong mấy câu:

“Xá lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; Sắc tức thị không, không tức thị sắc; Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.”
Thường người ta nghi ngờ làm sao có thể dùng phân tích và lý luận mà thấu triệt được tánh Không hay Vô phân biệt trí theo lối tích không quán, vì nhân và quả không cùng bản tính. Theo Bảo Tích kinh (Ratnakùta Sùtra) đức Phật đánh tan sự nghi ngờ này trong lời giảng dạy tu sĩ Kashyapa:

“Này Kashyapa, thí dụ, ông cọ xát hai que củi với nhau làm sinh ra lửa thời hai que củi ấy bị thiêu rụi ngay trong tiến trình sinh lửa. Cũng như thế, này Kashyapa, vọng tưởng phân biệt đích thực làm phát sinh năng lực thành đạt trí Bát nhã và trí Bát nhã chứng ngộ tức thì tiêu diệt vọng tưởng phân biệt đích thực.”

Nhưng tuệ giác đạt được tánh Không chưa phải là nguyên nhân quyết định để chứng ngộ Vô thượng bồ đề. Bởi vì như đã nói ở trên, hai nỗ lực “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” phải luôn luôn hợp nhất mới đủ điều kiện tất yếu hoàn thành đại thệ nguyện của Bồ tát. Trung luận có thể xem như là một pháp môn tích không quán hướng thượng. Như cọ xát hai que củi phát sinh lửa để rồi lửa thiêu rụi hai que củi, quán hết thảy những khái niệm về lý tính của thực tại là không và sự chuyển hóa vọng tưởng phân biệt thành Đại trí hủy diệt hết thảy mọi khái niệm. Trí tuệ ba la mật, ba la mật cuối trong lục độ ba la mật, bao hàm tuệ giác chứng ngộ tánh Không. Trong thực tế, còn có nhiều pháp môn tu tậpkhác để thành đạt tuệ quán đặc biệt này.

Trong Giải Thoát Trong Lòng Tay, sách ghi chú những lời giảng dạy của vị lạt ma mũ vàng nổi tiếng Pabongka Rinpoche, Thích Trí Hải dịch, có kể câu chuyện về ngài Hastikopava đã phạm một lỗi lầm khi dạy một ông vua tu tập. Thay vì đầu tiên phải giảng dạy tâm bồ đề tương đối tức là pháp tu bốn tâm vô lượng (từ, bi, hỷ, xả), Ngài lại giảng dạy phương pháp tuệ quán đặc biệt để liễu tri tâm bồ đề tuyệt đối (tên gọi khác của tánh Không). Ông vua đã sai giết ngài trước khi ngài có cơ hội tiếp tục giảng phần còn lại của giáo lý, nói về tâm bồ đề tương đối hay tâm Đại bi.

Hai loại tâm bồ đề, tương đối và tuyệt đối, được Ngài Nguyệt Xứng (Chandrakìrti) ví như đôi cánh chim bay băng hồ qua bờ các đấng hoàn toàn giác ngộ trong bài kệ sau đây:

Con ngỗng chúa dang đôi cánh trắng
Một cách tương đối, một cách chân như;
Bay đầu đàn ngỗng
Được đẩy mạnh bởi gió Phước
Băng qua hồ Thiện đức
Đến bờ các đấng Chiến thắng vô thượng.

Về sự song hành tu tập phước đức và trí tuệ, Kimura Taiken viết trong Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận:

“Cái không ấy (chỉ cái “chân không diệu hữu”) không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả được, chỉ khi nào thể nghiệm được nó bằng trực quan (intuition) ta mới có thể hiểu được một cách hoàn toàn. Nhưng điểm khế cơ của cái không đó là ở chỗ nhân cách hoạt động, đặc biệt lấy việc từ thiện (bố thí), đức hạnh (trì giới), nhẫn nại, nỗ lực (tinh tấn), tỉnh quán (thiền định), nghĩa là lấy Lục Ba la mật để thể hiện.”

Quả vậy, phước huệ song tu là pháp hàng phục vọng tâm đệ nhất để thành Phật đạo. Tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, là diệu dụng của phương tiện trí. Tu học tăng thượng định và đi đến thực hành tăng thượng tuệ học là diệu dụng của thật huệ trí.

Muốn phát triển tuệ quán đặc biệt liễu tri tánh Không thì phải nhân nơi thiền định môn, và muốn có thiền định môn cần phải nhờ đến sức đại tinh tấn. Vấn đề đặt ra là những khi xuất khỏi thiền chứng hoạt động độ sinh thời làm thế nào để giữ thái độ mọi sự là như huyễn?

Điều này cho thấy ý nghĩa và diệu dụng của Nhị đế. Khi ra khỏi thiền chứng, cuộc sống trở lại với thế giới giả danh của tục đế. Đối với trí tuệ vô nhiễm đã liễu tri chân đế thời bất cứ lúc nào, bất cứ những gì xuất hiện, bất kể đó là thứ gì, vạn pháp đều là những hiện tướng ảo hóa khởi lên từ tâm, tất cả đều do duyên khởi và vô tự tính.

Mặt khác, ba yếu tố từ bi, trí tuệ, và an lạc của tánh Không biểu lộ thành tâm an vui, linh động tràn đầy tình thương yêu và sự hiểu biết chân thật. Tuy nhiên đạt đến Phật quả chưa phải là đã thành đạt cứu cánh. Dầu đạt đến trạng thái giải thoát đi nữa thời trạng thái ấy cũng chỉ có mặt trong chốc lát rồi tan biến. Chỉ nhờ vào nỗ lực không ngừng tu dưỡng và sống đầy đủ giới hạnh thời tâm giác ngộ mới trở thành viên mãn ở mọi thời và mọi nơi như đức Phật.

Trong Vật lý học, có một phương trình vi phân diễn tả sự dao động tắt dần (Damping oscillations) khả dĩ ví với đạo lộ tu dưỡng của một hành giả. Phương trình này nguyên là để diễn tả một số hiện tượng vật lý học. Chẳng hạn, treo một vật nặng ở đầu một cái lò xo đính trên cao, rồi lấy tay kéo vật nặng xuống ít nhiều, xong thả tay ra. Vật nặng sẽ dao động lúc đầu khá mạnh, nhưng vì không khí cọ xát nên dao động tắt dần. Đem biểu thị hiện tượng bằng một đồ thị, ta sẽ có hình như sau.



Nhìn từ trái qua phải, trước hết ta thấy có một đoạn đường đi lên có thể dùng biểu trưng cho sự cố gắng của người đã phát tâm bồ đề, tinh tấn tu tập để tiêu trừ phiền não. Đó là đoạn đường Trung quán luận nói đến nhiều nhất qua pháp môn tiêu diệt hý luận. Cuối đoạn đường gia hành đó, là một điểm, chỉ một điểm mà thôi, cao nhất. Điểm này tượng trưng cho sự chứng đắc Vô phân biệt trí, tức là sát na tánh Không được thực chứng.

Có một ngành toán học mới gọi là logic mơ hồ (Fuzzy logic) rất ích lợi thiết thực trong việc sản xuất các bộ mày điện tính có tính chất thông minh (neural networks). Thứ toán này biểu diễn tánh Không bằng một phương trình rất đơn giản: A = phi A (A = not-A). Điều này không có gì lạ từ khi người Ấn độ tìm ra được con số zero (0) vì ai cũng biết con số zero có đặc tính là + 0 = – 0 tức A = phi A.

Một thí dụ dễ hiểu: Đổ nước vào một cái ly vừa đủ đầy một nửa. Bảo rằng nửa ly đầy có nghĩa là nửa ly không và ngược lại nửa ly không tức là nửa ly đầy. Do đó, trên phương diện toán học ta có thể viết:

nửa ly đầy = nửa ly không, hay A = phi A.

Liền ngay sau khi đạt đến điểm cao nhất đường biểu diễn đi trở xuống, tương ứng với giai đoạn hậu đắc trí. Hành giả trở lại với thế gian hoạt động độ sinh. Nhưng nhờ không ngừng tu dưỡng và tiếp tục sống đầy đủ giới hạnh cho nên từ đây trở đi đường biểu diễn lên xuống không cách xa tọa độ cao nhất của điểm chứng đắc tánh Không. Đoạn đường dao động tắt dần này biểu trưng cuộc sống của một vị bồ tát.

Đọc đến bài tụng cuối cùng, Trung luận, XXVII.30:

Cồ Đàm Đại Thánh Chủ
Lân mẫn thuyết thị pháp
Tất đoạn nhất thiết kiến
Ngã kim khể thủ lễ.

ta không thể không lưu tâm đến cách phiên dịch cụm từ “nhất thiết kiến” trong bản chữ Hán hay cụm từ “sarva-drsti” trong bản chữ Phạn. Chữ Việt, chữ Tây tạng, hay chữ Anh hầu hết đều dịch và thêm nghĩa vào thành “vô minh kiến chấp” hay “kiến chấp sai lầm”. Điều này dễ hiểu vì bài tụng này cũng là bài tụng cuối của Phẩm XXVII: Quán Tà Kiến trong đó đề cập và bác bỏ mọi tà kiến. Theo cách phiên dịch như vậy, ta không bao gồm quan điểm của Bồ tát Long Thọ trong số kiến chấp sai lầm cần phải bác bỏ. Quan điểm của Ngài được tóm thâu trong tám cái phủ định và lời tán thán đức Phật “năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hý luận”, ngay trong bài tụng tán khởi mở đầu Trung luận.

Theo quan điểm ấy, một mặt trên lập trường tục đế, lý duyên khởi được sử dụng để giải thích sự hiện hữu của vạn pháp vô tự tính qua vọng tưởng phân biệt và ngôn ngữ thông tục. Mặt khác, chân đế tức tánh Không chính là lý duyên khởi được đặt trên chiều Tuyệt đối siêu nghiệm, không có phẩm tính, thuộc tính, danh tính,… … nghĩa là vượt thoát ra ngoài mọi thi thiết diễn tả. Điều này được nêu rõ trong các bài tụng,

XVIII.7: “Thật tướng của các pháp thì đoạn bặt, cắt đứt cả tư duy và ngôn ngữ, không sanh cũng không diệt, tịch diệt như Niết bàn”;

XVIII.9: “tự mình tri nhận chứ không phụ thuộc vào kẻ khác, tịch diệt không hý luận, không còn có sự sai khác và phân biệt”;

XXII.12: “Ngay trong tướng tịch diệt vốn không có thường và vô thường v..v.. theo tứ cú. Ngay trong tướng tịch diệt cũng không có biên, vô biên v..v.. theo tứ cú.”;

XXV.23: “Làm gì có sự đồng nhất và sai biệt? Làm thế nào có thường và vô thường? vừa thường vừa vô thường và chẳng phải thường chẳng phải vô thường?”

Trên phương diện nhận thức luận, giáo lý Nhị đế xác nhận vai trò cần thiết và hữu ích của phép quán sát và phân tích bằng luận lý và ngôn ngữ.

Nhưng trên phương diện tu dưỡng, ngoài cách hiểu Trung luận theo lối trên, ta cũng có thể hiểu “nhất thiết kiến” trong câu “Tất đoạn nhất thiết kiến” là bao gồm luôn cả quan điểm của Ngài Long Thọ nữa. Như thế, quan điểm của Ngài sau khi được thông hiểu thấu đáo và đem ra ứng dụng có kết quả cũng phải đoạn tận giống như tất cả pháp khác. Đó là ý của lời đức Phật giảng pháp trong kinh Ví dụ con rắn (Trung bộ kinh, số 22):

“Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. … … Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp”.

Chánh pháp ở đây có nghĩa những sự chứng đạt tâm linh cao cả, những ý tưởng và quan niệm thanh khiết. Ngài Long Thọ cũng cùng một ý nghĩ như vậy khi nói lên trong bài tụng Trung luận, XIII.9:

Đại Thánh thuyết Không pháp
Vi ly chư kiến cố
Nhược phục kiến hữu Không
Chư Phật sở bất hóa.

Dịch là: Đấng Đại Thánh (tức đức Phật) dạy rằng: “Không pháp là viễn ly các kiến chấp, nhưng nếu trở lại chấp thấy có cái Không (kiến chấp về Không), thì chư Phật cũng không thể hóa độ.”

Hiểu như vậy tức là hiểu quan điểm “Tánh Không của Không” của Trung luận. Ngoài ra, Trung luận xác quyết “Nếu không y cứ Tục đế thì không đạt được Đệ nhất nghĩa đế. Nếu không đạt được Đệ nhất nghĩa đế thì không chứng được quả vị Niết bàn” (Trung luận, XXIV.10).

Bởi tại Chân đế và Tục đế là hai mặt Đại trí và Đại bi của Vô thượng Bồ đề nên y cứ Tục đế để đạt Đệ nhất nghĩa đế hầu chứng được quả vị Niết bàn cũng có nghĩa là “Bồ đề tâm khởi lên từ tâm đại bi; nếu không vậy, chẳng thể là Phật pháp” (Thiền luận, D. T. Suzuki, Tập Hạ, Tuệ Sĩ dịch).

Nói cách khác, Đại trí hay Chân đế là do bởi lòng Đại bi hay Tục đế mà phát sanh ra. Theo tục đế tức là do lòng đại bi muốn hóa độ tất cả chúng sinh mà Phật diệu dụng luận lý và ngôn ngữ giả nói đến ngã đến pháp.

Nhưng đối với người tu học tuy luận lý và ngôn ngữ rất cần thiết để vượt qua đạo lộ chuẩn bị, mọi ý định dùng ngôn thuyết tức ngôn ngữ và luận lý để ấn định và miêu tả đặc tính của chân đế nhất quyết phải buông bỏ, vì chân đế là tuyệt đối vô ngôn, đòi hỏi tinh tấn hành thiền vượt qua các tầng mức của minh sát tuệ mới chứng ngộ được.

Để kết luận, xin mượn lời của Tuệ Sĩ trong Triết học về tánh Không:

“Nhận thức chính xác về tánh Không không thể hoàn toàn bằng vào những phân tích của tư tưởng, mà đòi hỏi một công trình thực chứng. Những luận thuyết về tánh Không chỉ có giá trị như là những trang điểm cho tư tưởng mà thôi. Tất nhiên những luận thuyết như vậy sẽ không bao giờ chấm dứt.”


http://khaiphong.net/showthread.php?23583-Trung-Qu%E1n-Lu%26%237853%3Bn-ph%E1-t%E0-hi%26%237875%3Bn-ch%E1nh


Tánh Không

Tánh Không
John Blofeld
Hoang Phong chuyển ngữ

Lời giới thiệu của người dịch:

Theo dòng lịch sử tất cả các tôn giáo lớn đều tiến hóa, biến đổi để trở thành ngày càng đa dạng và cũng có thể là phức tạp hơn, Phật Giáo không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên cũng nên lưu ý là Giáo Huấn hay Đạo Pháp của Đức Phật – còn gọi là Dhamma (tiếng Pa-li) hay Dharma (tiếng Phạn) – từ nguyên thủy không hẳn là một “tôn giáo” mang ý nghĩa như ngày nay. Dù sao thì trong quá trình phát triển Đạo Pháp cũng đã uyển chuyển biến đổi để thích ứng với các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau cũng như với trí “thông minh” và những “xúc cảm” của con người, và từ đó đã làm phát sinh ra nhiều tông phái và học phái mang ít nhiều tính cách “thiêng liêng” và “thần bí” gần với một “tôn giáo” hơn. Trong nhiều trường hợp thì một số hình thức lễ lạc và các nghi thức màu mè phản ảnh từ các “tín ngưỡng” dân gian còn được ghép thêm vào Đạo Pháp.

Nếu các phương pháp tu tập, song song với sự hình thành của các tông phái và học phái, ngày càng trở nên phong phú và đa dạng thì một số khái niệm và giáo lý căn bản trong Đạo Pháp theo đó cũng đã được triển khai sâu rộng hơn và đồng thời cũng đã được suy diễn với ít nhiều khác biệt. Nếu khái niệm về tánh không được Đức Phật nêu lên như một phép luyện tập chính xác, cụ thể và thực dụng, như đã được thuyết giảng trong hai bài kinh Culasunnata-sutta và Mahasunnata-sutta, thì tánh không cũng đã được các tông phái và học phái sau này triển khai sâu rộng hơn bằng nhiều cách diễn đạt phức tạp hơn. Tiêu biểu nhất cho các cách giải thích “mới” về tánh không là bộ kinh đồ sộ Prajnaparamita-sutra, dịch âm là”Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa”, có nghĩa là “Kinh về sự hiểu biết Siêu Nhiên”, và còn được gọi vắn tắt là Tâm Kinh.

Theo truyền thuyết thì chính Đức Phật đã thuyết giảng Kinh này vào lần chuyển Pháp Luân thứ hai trên đỉnh Linh Thứu ở Vương Xá Thành (Rajagrha), và chỉ dành riêng cho các vị tỳ kheo, a-la-hán và bồ-tát nào hội đủ khả năng lĩnh hội. Theo Kinh Hoa Sen (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh / Saddharmapundarika-sutra) thì phần lớn các vị này đã bỏ ra về trước khi buổi thuyết giảng chấm dứt vì họ vô cùng kinh hoảng bởi không hiểu gì cả khi nghe giảng về tánh không, chỉ có một số các vị đệ tử cao thâm của Đức Phật là còn lưu lại cho đến hết buổi giảng.

Theo Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng thì các đệ tử của Đức Phật thời bấy giờ tuy đã được hấp thụ giáo huấn trong lần chuyển Pháp Luân thứ nhất thế nhưng vẫn chưa hội đủ khả năng để có thể lĩnh hội được giáo huấn trong lần chuyển Pháp Luân thứ hai trên đây. Vì thế giáo huấn này – tức là bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – đã được giao phó cho các vị thánh nhân gìn giữ và sẽ chỉ được đưa ra đúng vào các thời điểm thích nghi sau này. Một phiên bản gồm 100.000 tiết được giao cho Long Xà (Naga) gìn giữ, một phiên bản 25.000 tiết được giao cho con người gìn giữ, một phiên bản 10.000 tiết do các thiên nhân (deva) gìn giữ, một phiên bản 8.000 tiết do một vị Hộ Pháp là Bắc Phương Thiên Vương (Vaisravana) gìn giữ. Cách biện bạch này cũng có thể chỉ là để giải thích về sự xuất hiện muộn của Kinh Bát Nhã.

Theo lịch sử và qua công trình nghiên cứu của các học giả Tây Phương thì một phiên bản của bộ kinh này gồm 8.000 tiết bằng tiếng Phạn đã được liên tục trước tác trong khoảng thời gian từ năm 50 trước Tây Lịch đến năm 150 sau Tây Lịch. Sau đó lại thấy xuất hiện một phiên bản khác mới hơn và cũng dài hơn, và được trước tác trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ II đến thứ IV. Các phiên bản ngắn tóm lược bộ kinh này lại còn xuất hiện muộn hơn nữa, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ IV đến thứ VII.

Trong khoảng thời gian hình thành thật dài ấy của bộ Kinh Bát Nhã người ta nhận thấy có hai sự kiện lớn đã xảy ra. Trước hết vào khoảng thế kỷ thứ II có một vị đại sư là Long Thụ (Nagarjuna) đã trước tác nhiều tập luận nhằm triển khai và bình giải về tánh không nêu lên trong Kinh Bát Nhã, và vị này cũng đã thành lập một tông phái mới là Trung Quán Tông. Tập Trung Quán Luận Tụng(Madhyamakakarika) và tập Thất Thập Không Tín Luận (Sunyatasaptati) của ông trình bày và bình giải về tánh không là hai tập luận căn bản nhất của tông phái này. Sự kiện thứ hai xảy ra vào thế kỷ thứ IV, khi một vị đại sư của Trung Quán Tông là Vô Trước (Asanga) trước tác tập Hiện Quán Trang Nghiêm Luận(Abhisamayalankara) nêu lên con đường của người Bồ-tát dựa theo Kinh Bát Nhã, thế nhưng lại đưa ra một cách giải thích mới hơn về tánh không và đồng thời vị này cũng đã thành lập thêm một tông phái mới nữa là Duy Thức Tông. Sau đó quan điểm về tánh không của hai tông phái này lại được các vị đại sư khác tiếp tục triển khai và giải thích thêm suốt trên dòng phát triển của lịch sử Phật Giáo.

Sở dĩ nhắc đến một vài chi tiết như trên đây là để cho thấy khái niệm về tánh không do Đức Phật nêu lên qua các kinh sách “nguyên thủy” bằng tiếng Pa-li đã được liên tiếp triển khai sau đó và đã trở nên vô cùng phức tạp, đa dạng, đồng thời lại mang ít nhiều tính cách trừu tượng và bao quát hơn. Bài viết ngắn của John Blofeld được chuyển ngữ dưới đây sẽ giúp chúng ta hình dung ra phần nào các cách mô tả tánh không trên đây của Đại Thừa Phật Giáo nói chung.

John Blofeld (1913-1987) là một Phật Tử người Anh và cũng là một học giả Phật Giáo uyên bác, đã sống phần lớn cuộc đời mình tại các nước Á Châu như Trung Quốc, Mông Cổ, Tây Tạng, Thái Lan… Ông đã từng tiếp xúc và học hỏi với rất nhiều vị thầy lỗi lạc tại khắp các quốc gia này, và cũng đã qua đời tại Thái Lan. John Blofeld viết bài dưới đây vào thập niên 1960 và bài này đã được bà Odette Germain dịch sang tiếng Pháp và đưa lên một trang web Phật Giáo khá uy tín là Buddhaline (_http://www.buddhaline.net/La-Vacuite,109).

Trong bài viết đôi khi tác giả cũng nêu thêm một vài ghi chú (được đặt trong hai dấu ngoặc) nhằm giải thích thêm một số sự kiện do chính tác giả đưa ra. Người dịch cũng mạn phép góp thêm một vài lời ghi chú khác với hy vọng có thể giúp người đọc dễ theo dõi bản gốc hơn. Các lời ghi chú này cũng được đặt trong hai dấu ngoặc nhưng bằng chữ nghiêng. Sau phần chuyển ngữ cũng có thêm một vài lời ghi chú mang tính cách tổng quát hơn của người dịch về bài viết này của John Blofeld.

***

Nếu căn cứ vào sự lý luận lô-gic (sự hữu lý) thì sẽ không thể có bất cứ một thứ gì vừa trống-không lại vừa không-trống-không được, tuy nhiên ngược lại thì bắt buộc chúng ta phải chấp nhận có một thứ gì đó có thể mang hai thể dạng khác nhau. Phật Giáo đưa ra khái niệm về tánh không hầu giúp chúng ta hình dung ra, hay đúng hơn là cảm nhận được, thể dạng phi-nhị-nguyên (non-duality) và đấy cũng chính là cốt tủy của tánh không (nhị-nguyên là tính cách đối nghịch giữa chủ thể và đối tượng, tức là giữa người quan sát và đối tượng được quan sát, dù đối tượng ấy là một vật thể hay một sự kiện thuộc ngoại cảnh hay là các tư duy và xúc cảm bên trong tâm thức. Thể dạng phi-nhị-nguyên là một thể dạng cảm nhận của tâm thức khi nó đã loại bỏ được sự đối nghịch giữa chủ thể và đối tượng. Thật ra thì đây cũng là cách định nghĩa đặc thù của Duy Thức Học về tánh không).

Tánh không (tiếng Phạn là sunyata) là cả một sự huyền bí lớn lao, và có thể xem đây là khái niệm nòng cốt của toàn bộ giáo huấn Đại Thừa. Thật thế, tánh không đã từng là đề tài cho không biết bao nhiêu tập luận giải. Các bài Kinh cũng đầy ắp những câu gợi ý về tánh không.

Thế nhưng tương tự như tất cả những đối tượng cảm nhận mang tính cách mầu nhiệm khác, tánh không là một khái niệm mà ta không thể nào mô tả hay định nghĩa được bằng ngôn từ. Thật thế, gần như hầu hết những gì có thể nói ra được đều không mang một giá trị nào cả (đấy chỉ là những quy ước để hiểu ngầm với nhau). Chỉ có một số thật hiếm hoi các nhà thông thái Tây Phương đã tỏ cho thấy là họ có thể hiểu được (trên mặt lý thuyết) ý nghĩa của tánh không là gì. Ngay cả trong các quốc gia Phật Giáo, chỉ trừ một số thật hiếm hoi các nhà thần bí (tức là các vị tu hành cao thâm) là đã từng trực diện được với tánh không trong những lúc họ lắng sâu vào thiền định, ngoài ra thì cũng không có mấy ai đạt được một ý niệm nào về tánh không với ít nhiều chính xác. Đối với số người ít ỏi này nếu họ đã từng đạt được sự hiểu biết phần nào về tánh không thì đấy cũng là nhờ vào khả năng trực giác bẩm sinh của họ, phối hợp thêm với một số kiến thức uyên bác mà họ đã từng học hỏi được từ Kinh Sách (Sutra).

Riêng đối với trường hợp của tôi thì còn lâu tôi mới có thể theo kịp được các vị tu hành thần bí, vì thế khi viết lên những dòng này để nói về họ thì đấy cũng chỉ đơn thuần là những sự phỏng đoán mà thôi. Tuy nhiên cũng có hai lý do đã khiến tôi đánh liều chấp nhận mọi sự rủi ro có thể bị sai lầm. Lý do thứ nhất là nhờ vào một số vốn liếng hiểu biết dù còn thật ít ỏi mà tôi đã góp nhặt được qua các vị thầy Trung Quốc và Tây Tạng đã từng truyền dạy cho tôi, và thật ra thì các sự hiểu biết ấy cũng chỉ giúp tôi vạch ra một vài đường hướng suy tư nhằm mang lại một vài ý nghĩa nào đó dù còn thiếu sót về những gì mà kinh sách muốn trình bày khi đề cập đến tánh không.

Lý do thứ hai khiến tôi phải nói lên là vì tôi nghĩ rằng có một số người Tây Phương đã sai lầm khi họ kết án Phật Giáo là yếm thế, tuy nhiên tôi vẫn tin rằng đấy chẳng qua là vì họ đã nhầm lẫn giữa “tánh không” và sự “trống không” giản dị và đơn thuần (tức là không hàm chứa gì cả) – với một ý nghĩa tiêu cực phản ảnh thể dạng hư vô – và cũng chính vì thế nên họ đã cho rằng niết-bàn đồng nghĩa với sự tắt nghỉ (và đấy là một sự xúc phạm đến những người Phật Giáo) (đây có thể là một phản ứng vô tình vì sai lầm không hiểu được Phật Giáo một cách đúng đắn, nhưng cũng có thể là hậu ý của một số học giả và của một vài vị tu hành thuộc một vài tín ngưỡng lâu đời của Tây Phương nhằm chống lại Phật Giáo bằng cách bôi nhọ Phật Giáo chủ trương hư vô, khi tôn giáo này đặt chân vào thế giới Tây Phương vào thế kỷ XIX. Đấy cũng là lý do thúc đẩy tác giả đã mạnh dạn viết lên bài này để bênh vực cho Phật Giáo. Cũng xin nhắc thêm là tác giả đã viết bài này cách nay nửa thế kỷ, và ngày nay thì tình hình đã khác hơn xưa nhiều).

Dù sao tôi cũng không thể khẳng định được rằng tôi đã hoàn toàn thấu triệt đúng những gì các vị thầy tôi đã giảng dạy cho tôi và những gì tôi đã học hỏi được trong Kinh Sách, và hơn nữa trong những lúc thiền định thì tôi cũng chưa bao giờ tiếp cận được với tánh không. Vì thế thiết nghĩ [người đọc] cũng nên giữ một phong cách thận trọng nào đó về những gì tôi viết ra nơi đây, vì đấy cũng chẳng khác gì những điều mà một người mù suy đoán ra nhờ vào một người cận thị mô tả cho mình.

Bài Tâm Kinh ngắn (tức là bản kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa tóm lược chỉ gồm vài mươi câu) mà hàng triệu người Phật Giáo Đại Thừa trì tụng hằng ngày bằng tiếng Hán, tiếng Tây Tạng hay tiếng Phạn (có nghĩa là các Phật Tử khắp nơi ở Á Châu tụng niệm hằng ngày) hàm chứa một câu thật chủ yếu, đấy là câu nêu lên thật rõ ràng rằng:

“Hình tướng là tánh không và tánh không là hình tướng; hình tướng không khác với tánh không và tánh không cũng không khác với hình tướng”.

Mặc dù ý nghĩa thâm sâu và đích thật của câu này có thể không được diễn tả một cách thật minh bạch đi nữa, thế nhưng nó cũng đủ để nêu lên cho ta thấy là tánh không là một thứ gì đó hoàn toàn không phải là một thể dạng hư vô đơn thuần. Các lời bình giải thường thấy [từ trước đến nay] về ý nghĩa của câu này không hề có một sự phân tách chính đáng nào giữa sự tuyệt đối và tương đối, giữa hiện thực và những biểu hiện bên ngoài của các hiện tượng, giữa cội nguồn và vũ trụ (chẳng hạn như “người sáng tạo” và những gì đã “được sáng tạo”).

Nếu cho rằng không có một sự hiện hữu nào có thể độc lập và mang tính cách tự tại được (tức phải nhờ vào hiện tượng tương liên và tương tạo mà có) thì sẽ chẳng có bất cứ gì là thật cả, đấy chẳng qua là những hiện tượng mang tính cách tạm thời (bởi vì mỗi hiện tượng cũng chỉ là một sự kết hợp của hàng triệu hiện tượng khác và các hiện tượng này thì cũng phù du hơn cả chính nó): thế nhưng tất cả lại hiện ra rất thật. Tóm lại nếu hiểu đấy chỉ là những biểu hiện của sự hiện hữu [nói chung] và không hề mang một thuộc tính [cá biệt] nào thì chúng cũng sẽ chỉ là những thứ gì đó không thể nào nắm bắt được (tức có nghĩa là không thể định nghĩa hay quy định chúng một cách rõ rệt và cố định được, bởi vì chúng luôn chuyển động, hiện ra rồi mất đi, sự chuyển động đó – còn gọi là vô thường – chỉ là biểu hiện bên ngoài và tạm thời của hiện thực).

Chúng ta hãy thử nêu lên một thí dụ thật thô thiển, chẳng hạn như các gợn sóng trên mặt biển: chúng không hề mang tính cách trường tồn, cũng không hề hàm chứa một sự hiện hữu nào, mà luôn biến đổi trong từng khoảnh khắc một, chúng hoà lẫn vào nhau và biến mất ngay sau đó – thế nhưng có ai dám bảo rằng không có một thành phần nào của các gợn sóng sẽ còn tiếp tục hiện hữu, khi mà biển cả vẫn còn đấy? Sự so sánh trên đây không phải là không có kẽ hở, bởi vì một gợn sóng dù xảy ra vào một thời điểm nào thì nó vẫn chỉ là biển cả, dù không phải là toàn bộ biển cả thế nhưng cũng là thành phần của biển cả. Trong khi đó nếu nói đến tánh không thì sẽ chẳng có gì liên hệ với bất cứ một thứ gì nằm trong sự chi phối của các quy luật liên quan đến không gian (một gợn sóng lệ thuộc vào biển, thế nhưng tánh không thì không liên quan gì đến không gian, dù đấy là không gian “trống không”) vì thế dù chỉ là một hạt “vi thể” thế nhưng nó vẫn có thể biểu trưng cho sự toàn diện (“một chút” tánh không hay “toàn thể” tánh không thì cũng chỉ là “tánh không”, “một chút” hiện thực cũng là toàn bộ “hiện thực”, một “hạt cát” cũng là toàn thể “vũ trụ”, các hiện tượng cũng chỉ là những biểu hiện bên ngoài và tạm thời của một sự “hiện hữu” chung).

Chính vì thế mà những người Trung Quốc (nên hiểu là các vị đại thiền sư Trung Quốc trong quá khứ) thường chọn cách so sánh hình ảnh mặt trời phản chiếu trong nước chứa trong các chậu, bình, hay ao hồ khác nhau. Huai-Hai (Huệ Hải – còn gọi là Đại Châu Huệ Hải – một vị đại thiền sư Trung Quốc, 720-814) có nói rằng: mỗi chậu, bình hay ao hồ đều chứa đựng một mặt trời (mặt trời phản ảnh trong nước), mỗi [hình ảnh] mặt trời ấy đều nguyên vẹn và giống [như đúc] với mặt trời trên không trung…, thế nhưng mặt trời trên không trung lại không hề bị sứt mẻ (giảm bớt đi) một chút nào”.

Vị thiền sư nói lên câu trên đây cũng đã từng đề cập đến sự Giác Ngộ và xem đấy như là “sự thực hiện được thực thể của hình tướng và cả tánh không” (quán nhận được bản chất của hình tướng và cả của tánh không chính là sự Giác Ngộ). Thế nhưng trong một đoạn khác thì vị này cũng lại cho biết là có hai thứ tánh không khác nhau: một thứ liên hệ đến những gì “không-tánh-không” và một thứ khác là “tánh-không-tối-hậu” vượt lên trên tính cách nhị nguyên giữa tánh-không và không-tánh-không (non-vacuité / non-emptiness).

Thật hết sức hiển nhiên: tánh không mà một vị thần bí (một người tu tập cao thâm) nhận biết truớc hết qua kinh nghiệm cảm nhận của mình là thứ tánh không thứ nhất trong hai thứ tánh không trên đây (tức là thể dạng không-tánh-không), bởi vì vị này đã đạt được tánh không đó bằng một thể dạng tri thức “thông thường” tức là thể dạng thường xuyên chi phối bởi “không-tánh-không” (tức là thể dạng tri thức nhận biết được hình tướng hay những biểu hiện bên ngoài của mọi hiện tượng, nói cách khác là một thể dạng tri thức luôn hiện ra chủ thể và đối tượng), và sau khi đã thực hiện được những kinh nghiệm cảm nhận thần bí (giúp mình cảm nhận được “tánh-không-tối-hậu”) thì vị ấy mong đợi sẽ có thể tìm trở lại được thể dạng trước đó (tức là thể dạng không-tánh-không do tri thức “thông thường” cảm nhận được trong giai đoạn trước khi cảm nhận được tánh không đích thật) Vậy làm thế nào vị ấy có thể tránh khỏi không so sánh thể dạng tánh-không (tối hậu đạt được bằng thiền định) với thể dạng không-tánh-không xảy ra trước đó vẫn còn tiếp tục theo đuổi vị ấy? Dù sao nếu kinh nghiệm cảm nhận của vị ấy đủ sâu xa thì vị ấy cũng có thể vượt lên trên cả sự thiền định của mình để đạt được một thể dạng thật cao siêu mang lại một niềm tin tuyệt đối rằng tánh-không và không-tánh-không không phải là một sự [hiển hiện] luân phiên (chuyển tiếp từ thể dạng này sang thể dạng khác), bởi vì cả hai thể dạng ấy chẳng những cùng kết chặt với nhau mà còn hoàn toàn giống hệt như nhau (cách biện luận của John Blofeld thật tinh tế, giúp chúng ta liên tưởng đến tính cách “Đa Dạng” và “Nhất Nguyên” hay “Hình Tướng” và “Tánh Không” của hiện thực, tất cả những thứ này cũng chỉ biểu trưng cho hiện thực đơn thuần và bất khả phân, không phải là một sự hoán chuyển từ thể dạng này sang thể dạng khác).

[Thế nhưng] chính ở điểm ấy tính cách logique đã phản bội lại chúng ta. Nếu căn cứ trên phép lý luận logique thì không thể nào lại có thể có sự trống-không và không-trống-không trong cùng một lúc được, nếu không thì trên một khía cạnh nào đó phải chấp nhận có một thứ gì đó có hai thể dạng khác nhau. Người Tây Phương thường được rèn luyện theo cách lý luận logique, vì thế nên họ rất dễ bị rơi vào tình trạng hiểu biết mang tính cách nhị-nguyên nhiều hay ít. Dù cho họ có sẵn sàng chấp nhận trên phương diện trừu tượng là sự trống-không và không-trống-không thật sự chỉ là một thứ như nhau đi nữa, thế nhưng nền giáo dục mang nặng tính cách logique mà họ được thừa hưởng đã tạo ra nhiều gò bó trong sự suy nghĩ khiến cho họ khó tránh khỏi phải hình dung ra hai thể dạng khác nhau của hiện thực – đấy là tánh-không và không-tánh-không – và dù nếu chúng có tách rời nhau thì đấy cũng chỉ có tính cách tạm thời và chỉ ở vào một mức độ nào đó mà thôi.

Một người Á Đông bình thường cũng vẫn có thể gặp phải các khó khăn này, bởi vì kinh nghiệm cảm nhận của người này trong thể dạng “thần bí” (tức đạt được tánh không bằng thiền định) khác với kinh nghiệm cảm nhận của mình trong thể dạng “thông thường” (tức cảm nhận được thể dạng không-trống không): thế nhưng người này nhờ vào khả năng suy luận ít bị nhào nặn bởi nguyên tắc logique của người Tây Phương hơn nên cũng sẽ có thể chấp nhận dễ dàng hơn rằng sự trống-không và không-trống-không, trên phương diện tri thức, cũng chỉ là một thứ như nhau và cùng hiện hữu chung với nhau: nhờ đó đến khi luyện tập để thực hiện sự cảm nhận thần bí về tính cách nhất nguyên của hai thể dạng (trống-không và không-trống không) thì người này cũng sẽ gặp ít khó khăn hơn.

Người ta có thể bảo rằng Huệ Hải, vị thiền sư mà tôi đã nói đến trên đây, cũng đã rơi vào sự sai lầm nhị nguyên khi vị này cho rằng có hai thứ trống-không: thế nhưng tôi vẫn tin rằng trường hợp của Huệ Hải không giống như như trường hợp của các người khác, bởi vì không thể nào có thể nghĩ rằng vị ấy lại có thể phạm vào một lỗi lầm quá ư thô thiển đến thế (tuy nhiên biết đâu ông ta cũng có thể là một nạn nhân của sự sai lầm đó?). Dù sao thì cũng thật hết sức rõ ràng khi Huệ Hải nêu lên sự phân biệt ấy (tức là có hai thứ tánh không) thì đấy cũng chỉ là một hình thức chủ quan nào đó: bởi vì tánh-không chỉ tương kết với không-tánh-không trong tâm thức của những người hội đủ khả năng hoán chuyển được cả hai thể dạng là: thể dạng tri thức nhận thức được tất cả là không-tánh-không và thể dạng tri thức nhận thức được tất cả là tánh-không, thế nhưng cùng một thứ tánh-không ấy dưới thể dạng đích thật của nó (tức là tánh không đúng nghĩa hay đích thật) thì nó luôn độc lập với phương cách mà nó được cảm nhận (như là một đối tượng) cũng như đối với người đã cảm nhận được nó (như là một chủ thể), và lúc nào nó cũng vượt lên trên mọi sự phân biệt giữa “trống-không” và “không-trống-không” (câu này có nghĩa là tánh-không và không-tánh-không do Huệ Hải nêu lên chỉ mang tính cách chủ quan trong tâm thức ông, tánh không đích thật vượt lên trên cả hai thể dạng này).

Dù chỉ hiểu được giáo lý về tánh không một cách thật mơ hồ đi nữa – chỉ cần không hiểu sai là được! – thì cũng đủ để giúp chúng ta không đánh giá Phật Giáo như một tín ngưỡng yếm thế (có nghĩa là Phật Giáo không hề chủ trương hư vô). Làm thế nào mà cái chết và sự tắt nghỉ lại có thể khiến gây ra một sự đau buồn khi mà tuyệt nhiên chẳng có bất cứ một thứ gì [hiện hữu thật sự] để mà chết hay bị hủy diệt?

Cho đến khi nào chúng ta vẫn khăng khăng tin rằng chúng ta thực sự là những thực thể mang tính cách cá biệt, đang gánh chịu sự sinh, sự tăng trưởng, sự suy thoái và cái chết, thì khi đó chúng ta cũng sẽ có đầy đủ lý do để mà rơi nước mắt. Thế nhưng khi nào mọi sự bất thần hiện ra một cách minh bạch (nhờ vào các phương pháp thiền định đúng đắn) rằng “tôi” không phải là “tôi”, và tri thức của mỗi cá thể thật ra không hề mang một tính cách cá thể nào cả, và đồng thời thì nó cũng tự nhận diện được mình là một thể dạng tri thức rạng ngời, hiện hữu một cách độc lập, không đối tượng (không mang một chủ đích nào), và chính nó cũng chỉ là sự hiện hữu chung của toàn thể vũ trụ – không sinh, không tử, không hề được sáng tạo (incréé / uncreated / không hề được tạo dựng, tức hàm ý là không hề được sáng tạo bởi một vị tối cao nào cả) cũng không hề bị hủy diệt – thì khi đó cá thể ấy cũng sẽ có thể cười vào mặt ý nghĩ về cái chết, dù đấy là cái chết của mình hay của bất cứ một người nào khác.

Dù sao thì cũng phải chấp nhận rằng cũng có nhiều người bám víu vào sự sống này, tất nhiên là một sự sống mang đầy những thứ bất toại nguyện, và đồng thời tin vào thực thể của “cái tôi” của chính họ, khăng khăng đến độ có thể nói rằng ý nghĩ sẽ bị biến mất vào cõi vô tận (chết) không đáng cho họ quan tâm bằng chính niềm tin vào sự hiện hữu mang tính cách cá thể này (tức cái tôi) của họ (đang có), và họ chỉ ước mong sao cho sự hiện hữu này (cái tôi của họ đang có) phải trường tồn dù là dưới hình thức này hay hình thức khác, chỉ cần một điều kiện duy nhất là phải vĩnh viễn mà thôi (có nghĩa là họ chỉ muốn được sống mãi không bao giờ chết, dù dưới thể dạng linh hồn hay vong linh, dù trong thế giới này hay một cõi nào khác cũng được. Chỉ khi nào phải đối đầu với những trường hợp tuyệt vọng và không còn chủ động được tâm thức của mình nữa thì khi đó mới nảy ra ý định “muốn” tự tử cho rồi. Đối với những người luôn bám víu như thế sẽ rất khó cho họ có thể hiểu được tánh không là gì).

Hãy cứ cho rằng ngay trong lúc này [nếu] chúng ta đang hiện hữu với tư cách là những cá thể [cá biệt], thì tất nhiên chúng ta sẽ phải lo sợ vì đặc tính cá thể ấy cũng sẽ bị mất đi vào một lúc nào đó (chết) và vì thế cũng sẽ khó cho chúng ta tránh khỏi lo âu: thế nhưng đối với một nhà thần bí (tức một người tu tập) cao thâm thì người này sẽ hiểu rằng qua kinh nghiệm cảm nhận sống thực của mình (tức là khi đã đạt được tánh không) thì không hề có một nhân dạng mang tính cách cá thể (individuality) nào hiện hữu cả, do đó ý nghĩ bị mất đi đặc tính cá thể (hay nhân dạng, hay cái tôi) của mình cũng sẽ hoàn toàn không hàm chứa một ý nghĩa nào cả. Tất cả những gì mà chúng ta có thể bị mất đi – trong kiếp sống này hay trong kiếp sống tương lai – ấy chỉ là các thứ ảo giác vô nghĩa phát sinh từ sự mong muốn được hiện hữu dưới những hình thức cá thể (“cái tôi” hay cái “của tôi”). Nếu hiểu rằng các thứ ảo giác ấy chính là nguyên nhân tạo ra đủ mọi thứ bất toại nguyện cũng như hầu hết các nỗi khổ đau trong cuộc sống, thì còn có niềm hạnh phúc nào có thể to lớn hơn khi đánh mất nó!

Nếu tôi phải đưa bài viết ngắn này cho một trong số các vị thầy Tây Tạng hay Trung Quốc của tôi xem thì biết đâu vị này cũng sẽ có thể bảo tôi rằng:

“Hãy xé bỏ nó đi! Đấy chỉ là những thứ biện luận triết học làm mất thì giờ vô ích cho mi và cho cả người khác, toàn là những thứ luận bàn vô ích về những gì mà Kinh Sách gọi là tánh không! Hàng chục pho sách bàn về chủ đề ấy cũng không giúp cho mi hay cho người khác đạt được một sự hiểu biết đúng đắn hơn. Cái tánh không ấy hiện đang nằm trong tâm thức của chính mi đấy và cả trong cùng khắp mọi nơi. Điều cần làm là phải cảm nhận được nó. Hãy chấm dứt ngay cái trò viết lách và tìm tòi trong sách vở, và phải trực tiếp tìm cách thực hiện sự cảm nhận ấy ngay đi”.

Tôi nghĩ rằng khi nêu lên lời khuyên này tất sẽ khiến cho nhiều người phải mỉm cười: bởi vì ngay cả những vị thầy uyên bác nhất cũng đều phải đi đến chỗ cần phải viết ra hay nói ra – dù chỉ vừa đủ để giúp cho các đệ tử của mình ý thức được là có một kho tàng cần phải khám phá nếu không thì tất sẽ khó để giúp cho họ tránh khỏi tình trạng đánh mất hết năm tháng của đời mình mà không hề nghĩ đến việc phải tìm kiếm cho bằng được cái kho tàng ấy.

Tuy nhiên phải nói rằng chưa bao giờ tôi được nghe thấy bất cứ một vị thầy nào của tôi tự nhận rằng mình có thể định nghĩa được tánh không là gì (tất nhiên là như thế, bởi vì đấy chỉ là một kinh nghiệm cảm nhận trong tận cùng của tâm thức họ, cái cảm nhận ấy không thể mô tả bằng lời được). Họ chỉ quan tâm duy nhất đến trọng trách phải làm thế nào để có thể đưa ra các phép luyện tập giúp cho bất cứ một người đệ tử nào nếu cần mẫn cũng đều có thể tự mình khám phá ra tánh không bằng cách vượt thoát khỏi những ranh giới chật hẹp của sự lý luận logique, luôn bị vướng mắc trong mọi thứ khái niệm và nguyên tắc nhị nguyên, hầu giúp cho họ hòa nhập vào bầu không gian vô biên của sự cảm nhận đơn thuần.

Các phương pháp luyện tập của người Tây Tạng nhằm giúp mang lại sự cảm nhận trên đây thật hết sức đa dạng. Sự đa dạng ấy là một cách thích nghi với các loại chướng ngại (ngăn chận việc luyện tập) cũng rất đa dạng. Các chướng ngại này sở dĩ rất đa dạng là vì trí thông minh, các khả năng bẩm sinh cũng như kinh nghiệm của các người tu tập rất khác biệt nhau. Tuy nhiên hầu hết các phương pháp trên đây đều có một căn bản khá giống nhau, đấy là cách chuẩn bị cho tâm thức vươn lên nhờ vào phép thiền định dựa vào cách thường xuyên trì tụng câu kinh man-tra (chữ man- có gốc từ chữ Phạn manas, có nghĩ là “tâm thức”; chữ -tra có gốc từ chữ Phạn traya, có nghĩa lả “bảo vệ” hay “che chở”. Các câu man-tra là các câu trì tụng mang tính cách thiêng liêng của Kim Cương Thừa – còn gọi là Tan-tra Thừa – nhằm che chở tâm thức của người tu tập) mang ý nghĩa như sau: “tánh không là bản chất của tất cả mọi thứ dharma (tất cả mọi đối tượng, khái niệm, v.v…) (nói một cách tổng quát hơn là tất cả mọi hiện tượng) và chính tôi thì tôi cũng chỉ là bản chất ấy của tánh không”.

Cách lập đi lập lại thường xuyên câu man-tra trên đây sẽ mang lại một sức mạnh thật lớn – đủ để có thể giúp loại bỏ được các chướng ngại hiện ra trong cuộc sống của những ai chỉ biết nhìn vào thế giới hiện tượng qua những biểu hiện bên ngoài (tức là những thể dạng biến động và vô thường) của nó. Hầu hết các phương pháp trên đây còn đưa ra một phép luyện tập thiền định khác nữa, đấy là cách nhìn vào các biểu đồ để quán tưởng. Một loạt nhiều loại biểu đồ được chọn sẵn để người tu tập quán nhìn vào đấy, càng quán nhìn thường xuyên và càng quán thấy các biểu đồ ấy minh bạch hơn thì hiệu quả mang lại sẽ càng nhiều hơn. Các biểu đồ này sẽ tuần tự hòa nhập vào nhau và sau đó sẽ hòa nhập với chính người hành thiền, và người hành thiền thì cũng hướng vào các biểu đồ ấy để hòa nhập với chúng. Quá trình hòa nhập và thu hẹp tuần tự ấy (các biểu đồ hòa nhập vào nhau và người hành thiền cũng hòa nhập vào đấy và tất cả thu nhỏ dần) tiếp diễn cho đến khi nào chỉ còn lại một điểm bé tí xíu và sau cùng thì chính điểm này cũng sẽ tan biến vào tánh không. Tất nhiên là quá trình trên đây không phải dễ thực hiện nếu người tu tập chưa hội đủ khả năng để chủ động thật cao độ tâm thức mình. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu khi mới luyện tập thì cũng chỉ cần đạt được một chút kết quả thật nhỏ cũng đủ để giúp người tu tập suy đoán ra những gì sẽ còn phải thực hiện thêm sau này.

Tất nhiên tất cả mọi sự nhận biết được tánh không dù bằng cách trực tiếp (quán nhận bằng thiền định) hay gián tiếp (bằng cách học hỏi) cũng đều mang lại lợi ích. Nếu một người tu tập dựa vào kinh nghiệm của chính mình (thiền định) quán nhận được tất cả mọi sự vật (tất nhiên trong đó gồm có cả cái tôi của chính mình) đều vô thường và chỉ có một giá trị tương đối thì người ấy cũng sẽ loại bỏ được mọi sự bám víu vào các thứ hình tướng (bên ngoài) và các ý nghĩ (bên trong tâm thức) vì chúng chỉ là trống không. Đấy cũng là điều kiện sơ đẳng và tiên quyết nhất góp phần mang lại mọi sự thăng tiến tâm linh sau này. Người ấy sẽ cảm thấy mình được giải thoát khỏi những gì chi phối và trói buộc mình. Cách nhìn của người ấy về tất cả mọi sự vật trong cuộc sống cũng sẽ theo đó mà hoàn toàn thay đổi hết. Mọi sự tham lam, thèm muốn, ích kỷ, lo buồn, sợ hãi sẽ không còn có thể kiềm tỏa và trói buộc người ấy được nữa: bởi vì khi đã vượt thoát khỏi mọi chướng ngại thì người ấy sẽ thanh thản bước vào con đường hướng đến Giác Ngộ.

Đề cập đến chủ đề tiếp cận với tánh không cũng chính là một cách nêu lên các kinh nghiệm cảm nhận thuộc vào một lãnh vực vô cùng thiêng liêng, chẳng qua là vì tánh không có thể ví như chất liệu (matrice / matrix / chất liệu hay khuôn đúc) kiến tạo ra sự hiện hữu, là khuôn mẫu của hiện thực tối hậu, nơi đó quá khứ và tương lai, những gì thật gần hay thật xa, sự Nhất Thể hay Đa Dạng…, tất cả đều bị loại bỏ, không còn bất cứ gì tồn lưu để có thể ngăn chận những tia sáng rạng ngời của Sự Thật.

Ở cấp bậc hiện tại chúng ta vẫn còn trông thấy tính cách Nhất Nguyên xuyên qua khía cạnh Đa Dạng (nhìn thấy các hiện tượng Đa Dạng và hình dung ra hay suy ra tính cách Nhất Nguyên của chúng), thế nhưng vào một cấp bậc cao hơn (khi tánh không đã giảm xuống) (tức là khi đã thăng tiến trong việc luyện tập thiền định thì sẽ nhìn thấy sự biến động và ảo giác của mọi hiện tượng giảm bớt và lắng xuống) thì chúng ta sẽ thấy được sự Đa Dạng dưới khía cạnh Nhất Nguyên(trông thấy tất cả mọi hiện tượng đều nhất thể). Khi nào mục đích đã hoàn toàn đạt được thì cả hai khía cạnh ấy (tức là Đa Dạng và Nhất Nguyên) sẽ hiện ra dưới thể dạng vô tận của chúng, một thể dạng vượt lên trên mọi sự phân biệt (không phải là Đa Dạng mà cũng chẳng phải là Nhất Nguyên) – một thể dạng thật kỳ diệu và thánh thiện vượt khỏi mọi ngôn từ và tư duy (tức có nghĩa là đạt được Tánh Không Tối Thượng hay sự Giác Ngộ).

Vài lời ghi chú của người dịch
Điểm đáng chú ý trước nhất trong bài viết của John Blofeld trên đây là ông đã xác nhận rằng chính ông cũng “chưa bao giờ tiếp cận được với tánh không” Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì khi nào chúng ta vẫn còn hướng vào tánh không như một đối tượng để tìm hiểu nó, để tiếp cận với nó thì khi đó chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ thành công được, bởi vì chúng ta vẫn còn vướng mắc trong thể dạng nhị nguyên. Dù sao thì sự thú nhận trên đây của tác giả cũng đã chứng tỏ ông là một người thành thật và đồng thời cũng cho thấy một sự mâu thuẫn nào đó của ông đối với những gì ông trình bày về tánh không trong phần cuối của bài viết.

Ngoài ra ông cũng nhận thấy rằng trong số các vị tu hành thâm sâu và cả các vị thầy uyên bác của ông, không có một vị nào tự nhận mình “có thể giải thích được tánh không là gì, mà họ chỉ cố gắng tìm mọi cách để đưa ra các phép luyện tập giúp các môn đệ của họ tự thực hiện cái tánh không ấy cho chính mình”. Thật thế, đối với những người đã từng thực hiện được tánh không thì họ cũng không thể nào tìm được các ngôn từ thích nghi để mô tả nó. Tánh không thật ra chỉ là một kinh nghiệm cảm nhận thật bao la và sâu kín, tỏa rộng trong tâm thức vô biên của mỗi cá thể. Do đó không thể nào có một ngôn từ quy ước, công thức và cụ thể nào có thể giúp để hình dung ra được nó.

Điểm đáng chú ý thứ hai là tác giả đã nêu lên sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Tây Phương và Á Đông và cho rằng một người Tây Phương vì chịu ảnh hưởng nặng nề của sự suy luận logique đặc thù của Phương Tây nên đã gặp nhiều khó khăn hơn khi phải vượt qua tính cách nhị nguyên – tức là phải loại bỏ được chủ thể và đối tượng – để có thể quán nhận được tính cách nhất nguyên của hiện thực. Thật ra thì giáo dục nói chung không hẳn – hay ít ra cũng không phải là nguyên nhân duy nhất – mang lại những khó khăn ấy, bởi vì khả năng quán thấy và lĩnh hội của mỗi cá thể còn tùy thuộc vào khả năng suy nghĩ trừu tượng và sự suy luận liên kết với thật nhiều dữ kiện trong cùng một lúc. Nếu nhìn xa hơn nữa thì cũng sẽ thấy rằng các khả năng này còn tùy thuộc vào nghiệp sẵn có của mỗi cá thể.

Điểm đáng chú ý thứ ba là tác giả đã nhấn mạnh đến tính cách “siêu nhiên” và “thần bí” của tánh không, và đồng thời ông cũng đã nhìn vào các vị tu hành thâm sâu và các vị thầy uyên bác của ông như là những vị “thần bí”. Thật thế, từ nguyên thủy nếu Đạo Pháp của Đức Phật càng mang tính cách thực dụng, minh bạch và chính xác bao nhiêu thì sau này trên dòng tiến hóa lịch sử và song song với sự hình thành của Phật Giáo Đại Thừa, lại càng biến đổi bấy nhiêu để rồi mang thêm một vài nét “thiêng liêng” và “trừu tượng” nào đó. Khái niệm về tánh không tất nhiên cũng không tránh khỏi trường hợp này, tức có nghĩa là từ nguyên thủy tánh không là một đối tượng cho việc thiền định và là một phương tiện giúp đạt được sự giải thoát, thì nay lại chuyển thành bản chất của mọi hiện tượng trong vũ trụ và trong tâm thức của mỗi con người. Hơn nữa, Đạo Pháp của Đức Phật – từ nguyên thủy được gọi là Dharma – cũng đã biến đổi dần để trở thành một tôn giáo.

Trong Bài Kinh ngắn về Tánh Không (Culasunnata-sutta) giảng về tánh không, Đức Phật đã nêu lên bảy giai đoạn thiền định, từ các cấp bậc thô thiển thăng tiến dần lên thể dạng tánh không tối thượng. Bảy giai đoạn này như sau:

– cảm nhận gian nhà, ngôi làng và khu rừng, tất cả đều vắng lặng và trống không
– cảm nhận mặt đất bằng phẳng, không núi đồi, sông ngòi, cây cỏ
– cảm nhận bầu không gian vô tận và trống không
– cảm nhận sự tỏa rộng của tri thức vô biên trong tâm thức của người hành thiền
– cảm nhận sự vắng lặng và trống không của hư vô
– cảm nhận sự kiện không cảm nhận của chính mình
– cảm-nhận-không-cảm-nhận hay thực hiện được “tánh không tối thượng không có gì vượt hơn được”

Trong giai đoạn tột cùng tức là cấp bập thứ bảy, Đức Phật chỉ nói đấy là “tánh không tối thượng” nhưng không mô tả nó là gì. Sau một đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đạt được Giác Ngộ, thế nhưng Ngài cũng không mô tả sự Giác Ngộ ấy là gì mà chỉ phân vân tự hỏi con người bình dị của thời bấy giờ có đủ sức để thấu triệt được sự khám phá ấy của Ngài hay không?

Thật vậy cái “tánh không tối thượng” ấy không thể nào có thể mô tả hay giải thích một cách trung thực bằng các ngôn từ quy ước được. Nếu như Đức Phật cứ nói ra thì biết đâu chẳng những không ai hiểu được mà còn có thể mang lại cho người nghe đủ mọi thứ nghi ngờ đưa đến sự tranh cãi. Chẳng phải là Kinh Hoa Sen đã từng thuật lại là một số đông đảo các đệ tử và thánh chúng đã bỏ ra về khi họ không hiểu được những lời giảng của Đức Phật trên đỉnh Linh Thứu hay sao? Trí thông minh và các ảnh hưởng từ giáo dục, văn hóa, cũng như các tác động của xung năng và tác ý chi phối bởi nghiệp, luôn vận hành trong tâm thức của mỗi cá thể sẽ không cho phép họ hiểu được – hay ít ra là không hiểu giống nhau – “tánh không tối thượng” mà Đức Phật đã khám phá ra. Khi thắc mắc phát sinh thì hoang mang tất sẽ chi phối, và sự tranh biện cũng sẽ khó tránh khỏi, và biết đâu do đó Đạo Pháp cũng có thể đã mai một từ lâu chăng?

Sự yên lặng của Đức Phật và tính cách thiêng liêng trong Giáo Huấn của Ngài chính là chiều sâu và sức sống của Đạo Pháp giúp Đạo Pháp luôn trường tồn và sinh động. Nói thế không có nghĩa là phủ nhận mọi cố gắng của Đại Thừa, bởi vì các nỗ lực nhằm tìm hiểu, giải thích cũng như các phương pháp “cụ thể hóa” tánh không của các tông phái và học phái Đại Thừa qua hơn hai ngàn năm cũng đã góp phần không nhỏ giúp cho Đạo Pháp trở nên phong phú hơn.

Tuy nhiên một đôi lần Đức Phật cũng đã từng nói với các đệ tử thật thân cận của Ngài là Xá-lợi-phất và A-nan-đà rằng Ngài luôn thường trú và trải qua cuộc đời mình trong cõi tánh không. Điều này cho thấy rằng tánh không không hề hủy hoại sự hiện hữu, trí sáng suốt và nỗ lực phi thường của một con ngưòi, và nhất là không hề biến một cá thể trở thành hư vô. Tánh không chỉ xóa bỏ những gì ô nhiễm của những thứ hư cấu phát sinh từ các xung năng của một cá thể.

“Tánh không tinh khiết và tối thượng” ấy không hề thụ động mà đúng hơn rất tích cực. Nó xóa bỏ tất cả mọi hiện tượng trong thế giới, mọi xung năng thúc đẩy thế giới phải chuyển động. Nó xóa bỏ mọi hình tướng trên thân xác, dù đấy là những hình tướng xinh đẹp hay thô kệch, duyên dáng hay vụng về, béo phì hay gầy gò. Nó xóa bỏ các vết thương, bệnh tật, mùi hôi, lông tóc, đờm dãi, phèo phổi, màng nhầy, mủ máu, nước mắt và cả những nụ cười bật lên hăng hắc, ngớ ngẩn, hồn nhiên hay vui tươi. Nó xóa bỏ cả những hành động hung hăng hay thân ái, những ngôn từ ti tiện, lừa phỉnh, độc ác, bịa đặt hay dịu dàng, nhân hậu, hòa nhã và tràn ngập yêu thương. Nó xóa bỏ ngũ giác và mọi cảm nhận như thích thú, ghét bỏ và mọi thứ cảm tính toại nguyện, bất toại nguyện hay trung hòa, luôn tìm cách khơi động và thúc dục sự thèm muốn và ghét bỏ của bản năng. Nó xóa bỏ mọi xung năng, tư duy và tác ý, mọi đau buồn, khổ nhọc, hận thù, vui sướng, hân hoan, yêu thương, hờn giận, tiếc nuối. Nó xóa bỏ những ý đồ đen tối, những mưu mô biển lận và cả những ý nghĩ nhân hậu, chân thật và từ bi.

Tóm lại tánh không xóa bỏ cả cái tốt lẫn cái xấu, tất cả các hình tướng và những sự chuyển động của chúng trong thế giới kể cả năm thứ ngũ uẩn của một cá thể. Nó tẩy sách mọi thứ ô nhiễm trên dòng chảy liên tục của tri thức, không có một vết hằn nào của nghiệp có thể còn tồn lưu, không còn một tác ý nào được sinh ra, không còn một sự tạo dựng nào được hình thành. Dòng tri thức đó tuy vẫn tiếp tục luân lưu, thế nhưng thật tinh khiết, nhẹ nhàng và trong suốt, trong hơn cả không gian vô tận, nhẹ hơn cả hư vô, tinh khiết hơn cả tánh không, bởi vì cái tri thức đó đã trở thành chính “tánh-không” của “tánh-không”.

Khi dòng tri thức đã trở thành “tánh-không-của-tánh-không” hay nói cách khác là đã được thay thế bởi thể dạng “tánh không tối thượng không có gì vượt hơn được” do chính Đức Phật nêu lên trong một bài kinh thật ngắn là Culasunnata-sutta, thì cũng sẽ không còn bất cứ một chút tồn dư nào để có thể giúp ý thức được tính cách Đa Dạng hay Nhất Nguyên của mọi hiện tượng, hay để cảm nhận được thế nào là Phật Tính, Bản Thể của Phật, Như Lai Tạng, Hiện Thực, Chân như, Thực Tại, Niết Bàn, Tánh Không… và kể cả Tánh-Không-của-Tánh-Không, bởi vì tất cả các thuật ngữ ấy cũng chỉ đơn giản là những tên gọi mà thôi.

Tuy nhiên phía sau tất cả những thứ ấy và bên trong cái “tánh-không-của-tánh-không” ấy dường như vẫn còn lưu lại một nụ cười, một nụ cười thật trầm lặng của một Vị Phật đã ngồi yên hơn hai mươi lăm thế kỷ trên dòng luân lưu của tâm thức của mỗi chúng ta để chờ đợi chính chúng ta hôm nay.

Bures-Sur-Yvette, 01.11.12
Hoang Phong chuyển ngữ
_http://www.phatam.org/

 

Lý thuyết Vô Ngã

VÔ NGÃ (ANATTA)

Cái mà người ta thường gọi là linh hồn, ngã hay cái tôi, là để ám chỉ một thực thể tuyệt đối, trường cửu trong con người, bản thể bất biến đằng sau thế giới hiện tượng hằng biến. Theo một vài tôn giáo, mỗi người có một linh hồn tách biệt như thế do Chúa tạo dựng, và linh hồn ấy sau khi chết sẽ vĩnh viễn sống trong địa ngục hay thiên đường. Số phận nó tùy thuộc vào sự phán xét của đấng sáng tạo ra nó. Theo một vài tôn giáo khác, linh hồn ấy trải qua nhiều đời sống, cho đến khi nó hoàn toàn trong sạch và cuối cùng trở thành đồng nhất với Thượng đế hay Phạm thiên Brahman, Linh hồn phổ quát hay Àtman từ đấy nó phát xuất. Linh hồn hay ngã trong con người là cái suy nghĩ, cảm giác, và nhận thưởng phạt về tất cả mọi hành vi thiện ác của nó. Một quan niệm như thế gọi là Ngã kiến.

Phật giáo là tôn giáo độc nhất trong lịch sử tôn giáo nhân loại phủ nhận hiện hữu của một linh hồn, Ngã hay Àtman như thế. Theo giáo lý Phật, ngã kiến là một niềm tin sai lạc, không tương ứng với thực tại, và nó phát sinh những tư tưởng tai hại về “tôi” và “của tôi”, dục vọng ích kỷ không biết chán, sự chấp thủ, sân hận, ác độc, kiêu căng ngã mạn, và những cấu uế ô nhiễm khác cùng nhiều rắc rối. Nó là nguồn gốc của mọi rối ren trên đời, từ những tranh chấp cá nhân cho đến chiến tranh giữa các dân tộc. Tóm lại, tất cả mọi sự tác quái trên thế gian đều bắt nguồn từ quan niệm sai lạc này.

Có hai ý tưởng thâm căn cố đế trong tâm lý con người: tự vệ và tự tồn. Vì muốn tự vệ con người đã dựng nên Thượng đế để nương tựa, để được che chở, được an ninh bảo đảm, như một đứa trẻ nương tựa vào cha mẹ. Vì muốn tự tồn người ta đã sáng tạo ra ý tưởng về một linh hồn bất tử hay Àtman sẽ sống mãi đến bất tận. Trong ngu si, yếu đuối, sợ hãi, khát khao, người ta cần hai điều ấy để tự trấn an, tự vỗ về; vì lý do đó họ bám vào đấy một cách cuồng tín và hăng say.

Giáo lý Phật không dung dưỡng sự ngu si, yếu đuối, sợ hãi, khát khao ấy, mà cốt làm con người sáng mắt ra bằng cách trừ khử, tiêu diệt, nhổ tận gốc những thói này.

Theo Phật giáo, những ý tưởng của chúng ta về thượng đế và linh hồn là sai lạc, trống rỗng. Mặc dù những ý tưởng ấy được phát triển sâu đậm, dệt thành những chủ thuyết, tất cả đều là những dự phóng tinh vi của óc tưởng tượng được gói ghém trong một mớ danh từ triết lý và siêu hình phức tạp. Những ý tưởng này đã ăn sâu gốc rễ trong tâm lý con người, gần gũi thân thiết với họ đến nỗi họ không mong nghe, cũng không muốn hiểu một đạo lý nào ngược lại.

Đức Phật biết rõ điều ấy, ngài dạy rằng giáo lý của ngài “đi ngược dòng” (patisotagàmi), trái ngược với những dục vọng ích kỷ của con người. Bốn tuần lễ sau khi giác ngộ, ngồi dưới một gốc cổ thụ, ngài tự nhủ: “Ta đã thực chứng một sự thực sâu xa, khó thấy, khó hiểu… chỉ những bậc trí mới hiểu thấu. Những người bị đam mê chế ngự, bị vô minh vây phủ không thể nào thấy chân lý này, vì nó ngược dòng, nó cao siêu, sâu kín, tế nhị vàkhó nghĩ bàn.”

Nghĩ thế, đức Phật đã do dự một lúc: “Có phải vô ích không nếu ta cố giảng giải cho thế gian Chân lý mà ta đã chứng nhập?” Rồi ngài so sánh thế gian như một ao sen: trong ấy có nhiều hoa còn ở dưới mặt nước, có những hoa khác chỉ vừa ló lên trên mặt nước, nhưng cũng có những bông hoa đã vươn lên khỏi mặt hồ và không còn động chạm với nước. Cũng thế trong thế gian này, trình độ phát triển của con người khác nhau. Có một số người sẽ hiểu được Chân lý. Vì thế đức Phật quyết định giảng dạy chân lý ấy[1].

Lý Vô ngã là kết quả tự nhiên, là hệ luận của phân tích Ngũ uẩn và Duyên khởi (hay duyên sinh, paticca-samuppàda)[2].

Trong phần thảo luận về Diệu đế thứ nhất (Khổ đế, dukkha), chúng ta đã thấy cái mà ta gọi linh hồn hay cá thể được cấu tạo bởi năm uẩn, và khi phân tích kỹ năm uẩn ta không thấy có gì đằng sau chúng có thể gọi được là Tôi, Àtman hay Ngã, hay bất cứ bản thể trường tồn bất biến nào. Ðấy là phương pháp phân tích. Ta cũng có kết quả tương tự khi xét kỹ luật duyên khởi, phương pháp tổng hợp, và theo luật này thì không có gì trên thế gian là tuyệt đối. Mọi sự vật (pháp) đều giới hạn, tương đối, và phụ thuộc lẫn nhau. Ðây là thuyết tương đối của Phật giáo.

Trước khi thực sự đi vào vấn đề Vô ngã, ta nên có một ý niệm sơ qua về luật duyên khởi. Nguyên tắc của lý thuyết này được tóm tắt trong một công thức gồm 4 dòng:

Cái này có, thì cái kia có (imasmim sati idamhoti).
Cái này sinh, thì cái kia sinh (imassuppàda idam uppajjati).
Cái này không, thì cái kia không (imasmim asati idam na hoti).
Cái này diệt, thì cái kia diệt (imassa nirodhà idam airujjhata)[3].

Theo nguyên tắc điều kiện tính, tương đối tính và tính hỗ tương tùy thuộc ấy, sự tiếp tục của đời sống và sự chấm dứt của nó được giải thích trong một công thức chi tiết gọi là duyên khởi, (nghĩa là sự sinh khởi có điều kiện hay duyên) gồm 12 yếu tố:

1- Vô minh (làm) duyên (cho) hành (những hoạt động cố ý hay nghiệp) (avijjàpaccayà samkhàvà).
2- Hành (làm) duyên (cho) thức (samkhàrapaccayà vinnànam).
3- Thức (làm) duyên (cho) danh sắc (những hiện tượng tâm lý và vật lý) (Vinnànapaccayà nàmarùpam).
4- Danh sắc (làm) duyên (cho) lục nhập (5 giác quan và ý thức) (Nàmarùpapaccayà salàyatanam).
5- Lục nhập (làm) duyên (cho) xúc (động chạm, tiếp xúc) (salàyatanapaccayà phasso).
6- Xúc (làm) duyên (cho) thọ (cảm giác) (phassapaccayà vedanà).
7- Thọ (làm) duyên (cho) ái (khao khát ham muốn) (vedanàpaccayàtanhà).
8- Ái (làm) duyên (cho) thủ (bám víu, giữ lấy) (Tanhapaccayà upàdànam).
9- Thủ (làm) duyên (cho) hũu (quá trình sinh ra và trở thành) (upàdànapaccayà bhavo).
10- Hữu (làm) duyên (cho) sinh (sự sống, sinh ra) (Bhavapaccayà jàti).
11- Sinh (làm) duyên (cho)
12- Lão (già) tử (chết) ưu bi khổ não (buồn lo đau đớn) (Jàtipaccayà jaràm maranam).

Ðây là quá trình theo đó sự sống đã phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu ta đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của quá trình:

Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt v.v.. cho đến khi sinh lão, tử, ưu bi khổ não… diệt.

Cần nhớ rõ một điều rằng mỗi yếu tố trên đây đều vừa là nhân vừa là quả, nó vừa bị định đoạt bởi(paticcasamuppanna), và vừa làm điều kiện cho(paticcasamuppàda)[4].

Bởi thế chúng đều là tương đối, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan với nhau, không có cái gì là tuyệt đối hay biệt lập, do đó mà Phật giáo không công nhận có “nguyên nhân đầu tiên” như ta đã thấy trước kia[5]. Duyên khởi nên xem như một vòng tròn, chứ không nên xem là một sợi xích[6].

Vấn đề ý chí tự do chiếm một địa vị quan trọng trong tư tưởng và triết học Tây phương. Nhưng theo luật duyên khởi, vấn đề này không phát sinh và không thể phát sinh trong triết học Phật giáo. Nếu toàn thể hiện hữu đều là tương đối, giới hạn và phụ thuộc nhau, làm sao một mình ý chí có thể được tự do? ý muốn cũng bị giới hạn như bất cứ tư tưởng nào khác. Cái ta gọi là “tự do”chính nó cũng giới hạn và tương đối. Không thể có cái gì vật lý hay tâm lý có thể tuyệt đối tự do, vì mọi sự đều tương quan và tương đối. “ý chí tự do” bao hàm ý nghĩa một ý muốn không phụ thuộc vào những điều kiện, biệt lập với nhân quả. Làm sao một ý muốn hay bất cứ cái gì thuộc về ý chí, có thể phát sinh mà không có những điều kiện, tách rời nhân và quả – khi toàn thể hiện hữu đều giới hạn và tương đối, nằm trong luật nhân quả? Lại nữa ở đây, ý niệm về ý chí tự do cũng liên quan mật thiết đến những ý tưởng về Thượng đế, linh hồn, công bằng, thưởng phạt. Không những cái gọi là tự do đã không tự do, mà ngay cả chính ý niệm về ý chí tự do cũng không thoát khỏi những điều kiện.

Theo luật duyên khởi, cũng như theo sự phân tích con người thành năm uẩn, ý tưởng về một bản thể trường cửu bất diệt ở trong hay ngoài con người, dù gọi là Àtman, Tôi, Linh hồn, Ngã, hay cái Ta, chỉ được coi như một niềm tin sai lạc (tà tín), một bóng dáng của tâm thức. Ðây là lý thuyết Phật giáo về Vô ngã (anatta).

Ðể tránh một sự lầm lẫn, ở đây ta nên nhắc rằng có hai loại sự thật: sự thật ước lệ, Tục đế (sammutisacca), và sự thật tuyệt đối hay Thắng nghĩa đế(paramatthasaca)[7].

Khi ta dùng thường ngày những từ ngữ như “tôi”, “anh”, “linh hồn”, “cá nhân” v.v.. không phải chúng ta nói dối, mà nói một sự thật thuận theo quy ước của thế gian.

Nhưng sự thật tối hậu là không có “tôi” hay “linh hồn”. Như kinhMahàyànasùtràlankàra (Ðại thừa nhập Lăng già) dạy: “Một con người (pudagala) nên được xem là chỉ có trong sự giả lập (prajnapati) (nghĩa là theo quy ước thì có một cá thể hay con người), chứ không phải trong thực tại (dravya)[8].

“Sự phủ nhận một linh hồn bất tử là đặc tính chung cho mọi hệ thống giáo lý Tiểu thừa cũng như Ðại thừa, và như vậy không có lý do gì để quả quyết rằng truyền thống Ðại thừa, một truyền thống hoàn toàn đồng quan điểm với Tiểu thừa trên vấn đề này, đã đi xa với giáo lý nguyên thủy của đức Phật.” [9]

Bởi thế, thật lạ lùng khi gần đây vài học giả (như bà Rhys Davids và những người khác)[10] đã cố – một cách vô vọng – xen ý tưởng về ngã vào trong giáo lý Phật, một điều hoàn toàn trái ngược với Phật giáo. Những vị học giả này kính trọng, ngưỡng mộ và sùng thượng đức Phật và giáo lý Ngài. Họ ngưỡng mộ Phật giáo. Nhưng họ không thể tưởng tượng được rằng đức Phật, người họ xem là tư tưởng gia sâu sắc và minh bạch nhất, lại có thể phủ nhận hiện hữu của Àtman, linh hồn hay ngã mà họ rất cần đến. Họ không biết rằng họ đang tìm sự ủng hộ của Phật cho nhu cầu này, nhu cầu một hiện hữu bất diệt – dĩ nhiên không phải trong một cái ngã nhỏ nhen cá biệt với một chữ n thường, mà trong cái Ngã với một chữ N hoa.

Tốt hơn, người ta nên nói thật rằng họ tin vào Àtman hay Ngã, hoặc người ta có thể nói ngay rằng Phật hoàn toàn sai lầm khi phủ nhận hiện hữu của một cái Ngã. Nhưng chắc chắn không ai nên đưa vào trong đạo Phật một ý tưởng mà Phật không bao giờ chấp nhận, như chúng ta có thể thấy từ những nguyên bản Pàli còn lại.

Những tôn giáo tin có Thượng đế và linh hồn không giấu diếm hai khái niệm ấy, trái lại còn tuyên bố chúng ra, lặp đi lặp lại nhiều lần bằng những từ ngữ hùng hồn nhất. Nếu quả tình Phật cũng chấp nhận hai ý tưởng ấy, hai ý tưởng tối quan trọng trong mọi tôn giáo, thì chắc chắn Ngài đã công khai tuyên bố chúng như Ngài đã tuyên bố những điều khác, chứ không để cho chúng bị ẩn khuất để chỉ được khám phá ra 25 thế kỷ sau khi Ngài mất.

Người ta đâm ra nóng nảy khi nghĩ rằng qua giáo lý Vô ngã của Phật, cái Tôi mà họ tưởng tượng mình có, sẽ bị phá hủy. Ðức Phật không phải là không biết đến điều này.
Một hôm, một vị Tỳ kheo hỏi Ngài: “Bạch đức Thế Tôn, có khi nào người ta bị dày vò bối rối vì không tìm thấy được trong mình một cái gì trường cửu?”
Ðức Phật trả lời:

– Quả có như vậy, này Tỳ kheo. Khi một người có ý nghĩ “Vũ trụ là Àtman, sau khi chết ta sẽ là cái ấy, trường cửu, còn mãi, kéo dài, bất biến, ta sẽ tồn tại như thế cho đến vô cùng”, mà được nghe Như Lai hay một đệ tử của Như Lai giảng lý thuyết đưa đến sự phá hủy hoàn toàn mọi quan điểm tư duy… đưa đến sự dập tắt khát ái, đưa đến giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn; người ấy sẽ nghĩ: “Thế là ta sẽ trở thành hư vô, ta sẽ bị hủy diệt, ta sẽ không còn nữa.” Do vậy nó rên rỉ, lo lắng, đấm ngực than khóc, và đâm ra hoảng hốt. Như thế, này Tỳ kheo, quả có trường hợp người ta bị dày vò khi không tìm thấy được trong nó một cái gì trường cửu [11].

Ở một đoạn khác, đức Phật dạy: Hỏi các Tỳ kheo, ý nghĩ “ta sẽ không còn tồn tại, không có gì nữa” làm cho những người ngu sợ hãi.”[12]

Những người muốn tìm một cái “Ngã” trong Phật giáo lý luận như sau: Quả thật đức Phật đã phân tích con người ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức (Ngũ uẩn), và bảo rằng không có gì trong những thứ ấy là Ngã. Nhưng Ngài không bảo tuyệt đối không có Ngã, nơi con người hay nơi nào khác ngoài năm uẩn.

Lập trường này không đứng vững được vì hai lẽ:

Lẽ thứ nhất là theo giáo lý Phật, con người chỉ là năm uẩn kết hợp không là gì khác. Không có chỗ nào Phật bảo còn có cái gì khác ở trong con người, ngoài năm uẩn.

Lẽ thứ hai là nhiều lần Phật đã bác bỏ, bằng những lời lẽ minh bạch, hiện hữu của Àtman, linh hồn hay Ngã trong hay ngoài con người, hay bất cứ ở đâu trong vũ trụ. Ðây là vài ví dụ:

Trong kinh Pháp cú (Dhammapada) có ba bài kệ vô cùng quan trọng và cốt yếu trong giáo lý Phật : bài 5, 6, 7 chương 20 (hay những câu thơ số 277, 278, 279).

Hai câu thơ đầu nói:

“Tất cả hành là vô thường” (sabbe samkhàrà aniccà) và
“Tất cả hành là khổ” (sabbe samkhàrà dukkhà).

[hành hay hữu vi, là những gì có sinh, trú và diệt; được kết hợp do các điều kiện – Dịch giả]

Câu thứ ba là:

“Tất cả pháp vô ngã” (sabbe dhammà anattà) [13].

Cần chú ý đặc biệt ở đây rằng trong hai câu đầu, chữ samkhàrà – “những sự vật có điều kiện” – đã được dùng. Nhưng trong câu thứ ba thay vì chữ samkhàra, chữdhammà đã được dùng. Vì sao câu thơ thứ ba đã không dùng chữ hành, samkhàrà, “sự vật có điều kiện”, như hai câu trước, mà lại dùng danh từ pháp, dhammà thay vào? Chính đấy là điểm quan trọng nhất của vấn đề.

Danh từ hành, samkhàra[14] ám chỉ Ngũ uẩn, mọi sự vật và trạng thái bị giới hạn, phụ thuộc lẫn nhau, tương đối, mọi “pháp” vật lý cũng như tâm lý (sắc pháp và tâm pháp). Nếu câu thơ thứ ba nói: “Mọi hành (sự vật bị giới hạn) là vô ngã” thì người ta có thể nghĩ sự vật bị giới hạn là vô ngã, tuy nhiên có thể có một cái Ngã ở ngoài những sự vật bị giới hạn đó, ở ngoài Ngũ uẩn. Chính để tránh sự hiểu lầm mà danh từ pháp (dhammà) đã được dùng trong câu thơ thứ ba.

Danh từ pháp có phạm vi rộng lớn hơn hành rất nhiều. Không có danh từ nào trong thuật ngữ Phật học lại có phạm vi rộng hơn chữ pháp. Nó bao gồm không những những sự vật và trạng thái có điều kiện, mà còn cả cái vô điều kiện, cái tuyệt đối, Niết-bàn; không có gì ở trong hay ở ngoài vũ trụ, tốt hay xấu, hữu vi (có điều kiện) hay vô vi (không điều kiện), tương đối hay tuyệt đối…, mà không được bao gồm trong danh từ này. Bởi vậy, thật quá rõ ràng, theo câu “tất cả pháp vô ngã” thì không có Ngã, không có linh hồn, không những chỉ ở trong Ngũ uẩn, mà còn bất cứ ở đâu ngoài ngũ uẩn hay tách biệt với ngũ uẩn[15].

Theo giáo lý nguyên thủy, điều này có nghĩa rằng không có ngã ở trong con người (puggala) hay trong các pháp. Triết lý đại thừa cũng có một lập trường y hệt, không có một dị biệt nào về điểm đó, nhấn mạnh trên sự vô ngã của các pháp cũng như vô ngã của con người (pháp vô ngã, dhammanairàtmya và nhân vô ngã,pudgalanairàtmya).
Trong kinh Xà dụ Alagadddùpamasutta (Trung bộ I), Phật dạy môn đệ: “Hỏi các Tỳ kheo, các ông có thể bám lấy một ngã luận (thuyết về ngã) nếu điều ấy không phát sinh sầu, bi khổ, ưu, não. Nhưng này các Tỳ kheo, các ông có thấy một ngã luận nào như thế hay không, một ngã luận mà khi chấp nhận nó, sẽ không phát sinh sầu, bi, khổ, ưu, não?

– Bạch đức Thế Tôn, nhất định là không
.
– Chính thế, hỏi các Tỳ kheo, Như Lai cũng vậy. Này các Tỳ kheo, Như Lai không thấy một ngã luận nào mà nếu chấp nhận, sẽ không phát sinh sầu, bi, khổ, ưu, não.”[16]

Nếu Phật đã chấp nhận một ngã luận nào, thì chắc chắn ngài đã giảng ra đây, vì ngài bảo các Tỳ kheo hãy chấp nhận một ngã luận nếu luận thuyết đó không phát sinh đau khổ. Nhưng theo ngài, không có một thuyết nào như thế, và bất cứ một ngã luận nào, dù tinh tế và cao siêu đến đâu cũng chỉ là giả danh và tưởng tượng, sinh ra mọi vấn đề rắc rối, kéo theo những sầu, bi, khổ, ưu não.

Tiếp theo, cũng trong kinh ấy Phật dạy:

“Hỏi các Tỳ kheo, khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không thực có, thì quan điểm tư duy này: “Vũ trụ là Ngã, ta sẽ là Ngã sau khi chết, sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh viễn, bất biến, và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian”, quan điểm ấy có phải là hoàn toàn điên rồ chăng?”[17]

Ở đây Phật nói rõ rằng một Àtman, hay linh hồn, hay Ngã, thì không thể tìm thấy đâu trong thực tại, và thật điên rồ để tin tưởng rằng có một chuyện như thế.

Những người tìm kiếm một cái Ngã trong giáo lý Phật trích ra một ít ví dụ mà trước hết họ dịch sai, rồi giải thích một cách lầm lẫn. Một trong những ví dụ ấy là câu danh tiếng attà hi attano nàtho trong kinh Pháp cú (XII, 4 hay câu thơ 160), đã được dịch là “Ta là chúa tể của ta”, và được giải thích rằng nó có nghĩa cái Ngã lớn là chúa tể của cái ngã nhỏ.

Trước hết, lối dịch ấy không đúng. Attà đây không có nghĩa là ngã trong nghĩa linh hồn. Trong tiếng Pàli, danh từ attàthường được dùng như một đại danh từ, trừ số ít trường hợp được dùng theo nghĩa đặc biệt triết học để chỉ thuyết linh hồn như đã thấy ở trên.

Theo cách dùng thông thường, như trong chương XII của Pháp cú, từ đấy câu trên được trích, và trong nhiều nơi khác,attà được dùng như một đại danh từ hay đại danh từ bất định có nghĩa “chính tôi”, “chính anh”, “chính nó”, “chính ta”, “chính người ta” v.v..[18]

Kế đến, chữ nàtho không có nghĩa là “chúa tể”, mà là “nơi nương tựa”, “trú ẩn, giúp đỡ, che chở” [19]. Bởi thế Attà hi attano thật sự có nghĩa “Ta là chỗ nương của chính ta”. Nó không dính dáng gì đến một cái ngã hay linh hồn siêu hình nào cả. Nó chỉ có nghĩa bạn phải nương cậy vào chính bạn chứ đừng ỷ lại vào kẻ khác.

Một ví dụ khác về sự cố đưa ý tưởng về ngã vào giáo lý Phật là câu danh tiếng Attadìpà viharatha, attasarana anannasaranà được tách khỏi mạch văn kinh Ðại Bát Niết Bàn[20]. Câu này dịch sát ý có nghĩa: “Hãy là hòn đảo cho chính ngươi, là nơi trú ẩn cho chính ngươi, và đừng xem ai khác là nơi nương cậy”[21]. Những người muốn tìm ngãtrong Phật giáo đã giải thích từ ngữ attadìpàattasaranà là “lấy ngã làm ngọn đèn”, “lấy ngã làm nơi nương tựa”[22].

Ta không hiểu trọn ý nghĩa lời Phật khuyên A-nan (Ànanda) nếu không xét đến bối cảnh và mạch văn trong đó những lời này được thốt ra.

Lúc ấy đức Phật đang nghỉ tại một khu làng gọi là Behuva, ba tháng trước khi Ngài mất, Bát Niết-bàn (parinirvàna). Bấy giờ Ngài đã 80 tuổi, đang lâm bệnh nặng.

Nhưng Ngài nghĩ không nên chết mà không từ giã những môn đệ vốn gần gũi yêu mến Ngài. Bởi thế, một cách can đảm, cả quyết, Ngài chịu đựng tất cả đau đớn, thắng lướt cơn bệnh, và bình phục. Nhưng sức khỏe Ngài còn kém. Sau khi bình phục, một ngày kia Ngài ngồi trong bóng mát ở bên ngoài chỗ Ngài lưu trú. A-nan, vị thị giả tận tụy nhất của Phật, tiến đến đức Ðạo sư quý mến của mình, ngồi bên cạnh đức Thế Tôn và bạch:

“Bạch đức Thế Tôn, con đã săn sóc sức khỏe đức Thế Tôn, con đã hầu hạ Ngài trong khi Ngài lâm bệnh. Nhưng khi thấy bệnh tình của Ngài, bầu trời đối với con trở nên mờ mịt, và các giác quan của con không còn sáng suốt nữa. Tuy nhiên con còn một điều an ủi nhỏ này: con nghĩ đức Thế Tôn sẽ không nhập Niết-bàn mà không để lại những lời di giáo đề cập đến đoàn thể Tăng già.”

Khi ấy đức Phật đầy từ bi và nhân ái, đã khoan hòa nói với người thị giả tận tụy thân yêu: “A Nan, đoàn thể Tăng già còn chờ đợi gì nơi ta nữa? Ta đã nói pháp (chân lý) không phân biệt cao thấp. Về phương diện chân lý, Như Lai không có gì như nắm tay khép chặt của một ông thầy (àcariyamutthi). Này A-nan, nếu người nào có ý nghĩ muốn lãnh đạo Tăng già, Tăng già phải tùy thuộc vào họ, thì dĩ nhiên họ sẽ đặt ra những chỉ dẫn. Nhưng Như Lai không có ý nghĩ ấy. Vậy thì sao Như Lai phải lưu lại những lời chỉ dẫn liên hệ đến tổ chức Tăng già? Nay ta đã già, A-nan, đã 80 tuổi. Như một chiếc xe cũ cần phải sửa chữa mới chạy được, cũng thế, thân xác của Như Lai bây giờ cũng chỉ tiếp tục điều hành nhờ sửa chữa. Bởi thế, này A-nan, hãy tự làm hòn đảo cho chính ngươi, hãy lấy chính ngươi làm nơi nương tựa, không nương tựa vào ai khác; hãy lấy Pháp làm hòn đảo, lấy Pháp làm nơi nương tựa, không ai khác có thể làm nơi nương tựa cho ngươi[23].

Những gì đức Phật muốn truyền dạy A-nan thật quá rõ ràng. A-nan đang buồn sầu đau đớn. Ông nghĩ rằng mình sẽ hoàn toàn cô độc, không người giúp đỡ, không nơi nương tựa, không người hướng dẫn, sau khi đức Ðạo sư vĩ đại qua đời. Bởi thế đức Phật ban cho ông những lời an ủi, khuyên ông can đảm, tin tưởng, dạy rằng nên nương vào chính đạo và nương vào “Pháp” Ngài đã truyền, chứ đừng nương vào ai khác, vào cái gì khác. Ở đây vấn đề về một Àtman siêu hình, hay ngã, là hoàn toàn không nhằm chỗ.

Sau đó, đức Phật giảng giải cho A-nan làm thế nào để có thể là hòn đảo hay chỗ trú ẩn cho chính mình: ấy là nhờ sự đào luyện tâm chú ý quán sát thân, cảm thọ, tâm và các pháp (4 pháp quán, xem chương kế tiếp về Quán tưởng)[24]. Ở đây cũng thế, không có một chữ nào liên hệ đến ngã hay linh hồn.

Một tài liệu khác cũng rất thường được trích dẫn bởi những người muốn tìm Ngã trong giáo lý Phật. Một hôm đức Phật ngồi dưới bóng cây trong một khu rừng trên đường đi từ Benarès (Ba la nại) đến Uruvelà. Vào ngày ấy có 30 hoàng tử trẻ tuổi đang đi cắm trại cùng với những người vợ trẻ của họ trong cùng khu rừng ấy. Một ông hoàng chưa vợ mang theo một gái giang hồ. Trong khi những người khác đang vui đùa, thì cô ta trộm một vài đồ vật quý giá và trốn mất. Trong khi đi tìm cô ấy trong cánh rừng, trông thấy Phật đang ngồi dưới gốc cây họ hỏi Ngài có thấy một người đàn bà đi qua không. Ngài hỏi có chuyện gì, và sau khi nghe giải thích đức Phật hỏi họ:

“Các ngươi nghĩ sao, hỏi những người trẻ tuổi? Ðiều gì tốt hơn cho các ngươi: đi tìm một người đàn bà, hay đi tìm chính mình?”[25]

Ðây cũng lại là một câu hỏi rất giản dị và tự nhiên, không có lý do gì để đưa vào đấy những ý tưởng xa xôi về Ngã hay Linh hồn. Họ trả lời tốt hơn nên tìm kiếm chính mình. Phật liền bảo họ ngồi xuống và giảng pháp cho họ nghe. Theo bài pháp mà Phật đã giảng cho họ còn ghi lại trong kinh điển nguyên thủy, không có một chữ nào nói về ngã.

Người ta đã viết nhiều về đề tài “sự im lặng của Phật”, khi một du sĩ tên Vacchagotta hỏi Ngài có ngã hay không. Câu chuyện như sau:

Vacchagotta đi đến đức Phật và thưa hỏi:

– Thưa Ngài Cồ-đàm, có ngã hay không?

Ðức Phật lặng im.

– Thế thì thưa Ngài, không có ngã sao?

Ðức Phật lại im lặng.

Vacchagotta đứng dậy bỏ đi.

Sau khi du sĩ (parivràjaka) rời khỏi, A-nan hỏi Phật vì sao Ngài đã không trả lời câu hỏi của Vacchagotta. Phật giải thích thái độ của Ngài như sau:

– Này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Có ngã hay không?” , nếu trả lời: “Có” là ta đã đứng về phe các sa môn, Bà la môn chủ trương thuyết trường tồn (sassatavàda). Và này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Không có ngã hay sao?” nếu trả lời “Không” là ta đã đứng về phe các sa môn Bà la môn chủ trương thuyết đoạn diệt (uccheda vàda)[26].

Lại nữa, này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Có ngã không?”, mà ta trả lời: “Có” thì như thế có phù hợp với sự thấy biết của ta rằng vạn pháp là vô ngã hay không?”[27]

– Bạch Thế Tôn, hẳn là không.

– Lại nữa, này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: “Không có ngã hay sao?” mà ta trả lời: “Không”, thì sẽ làm cho Vacchagotta đã hoang mang lại càng hoang mang thêm nữa[28]. Vì y sẽ nghĩ: “Trước kia quả thật ta có ngã, nhưng bây giờ ta không có nữa.” [29]

Bây giờ hẳn là ta phải hiểu rõ vì sao Phật im lặng. Nhưng ta sẽ còn hiểu rõ hơn nếu xét toàn thể bối cảnh và cách Phật xử trí về những câu hỏi và người hỏi – điều mà những người bàn đến vấn đề ấy hoàn toàn bỏ qua.

Phật không phải như một máy tính tuôn ra đáp số cho bất kỳ câu hỏi nào, do bất cứ ai đặt ra, không cần suy xét. Ngài là một bậc Ðạo sư thực tiễn, đầy từ bi và trí tuệ.

Ngài không trả lời câu hỏi để phô bày kiến thức và thông minh của mình, mà để giúp người hỏi trên đường đạt đến thực chứng. Khi nói với người nào Ngài luôn luôn quan tâm đến trình độ phát triển của họ, khuynh hướng của họ, cấu tạo tâm thức của họ, tính tình họ và khả năng họ để lĩnh hội vấn đề[30].

Theo Phật, có bốn cách đáp câu hỏi:

1. Có khi nên trả lời thẳng câu hỏi.

2. Có câu hỏi cần trả lời bằng cách phân tích.

3. Có khi nên trả lời bằng cách hỏi ngược lại.

4. Và cuối cùng, có những câu hỏi nên dẹp, không đáp[31].

Có thể có nhiều cách dẹp một vấn đề. Một cách là bảo vấn đề ấy không có giải đáp, đó là cách Phật đã có lần xử dụng với du sĩ Vacchagotta ấy, khi ông đặt những câu hỏi nổi tiếng về vũ trụ trường tồn hay không v.v..[32].

Cũng với cách ấy, Ngài đã trả lời cho Màlunkyaputta và những người khác. Nhưng Ngài không thể làm vậy về vấn đề có ngã hay không, vì Ngài đã luôn luôn thảo luận và giảng giải nó. Ngài không thể nói: “Có ngã” vì nó trái ngược với kiến giải của Ngài rằng tất cả các pháp vô ngã.

Và Ngài cũng không muốn nói không có linh hồn, vì như thế là vô cớ làm cho anh chàng tội nghiệp Vacchagotta đã hoang mang càng hoang mang thêm, như chính anh ta đã công nhận[33].

Anh ta chưa đủ căn cơ để hiểu về vô ngã. Vì vậy trong trường hợp này, dẹp câu hỏi sang một bên bằng cách im lặng, là thái độ khôn ngoan nhất.

Ta cũng đừng quên rằng Phật đã biết rõ Vacchagotta từ lâu. Ðây không phải dịp đầu tiên mà người du sĩ thắc mắc ấy đến thăm Phật. Ðấng Ðạo sư đầy trí tuệ và từ bi đã lưu tâm chú ý nhiều đến con người tìm kiếm hoang mang này. Có nhiều đoạn nói đến du sĩ Vacchagotta trong các bản kinh Pàli, ông đã từng tìm đến Phật và các môn đệ Ngài khá nhiều lần, lặp đi lặp lại nhiều lần cùng những câu hỏi ấy, rõ ràng ông rất băn khoăn, hầu như bị vấn đề kia ám ảnh[34]. Sự im lặng của Phật có lẽ đã có hiệu quả đối với Vacchagotta hơn bất cứ một sự trả lời hay thảo luận hùng hồn nào[35].

Một vài người xem ngã có nghĩa là cái gì thường được gọi là “tâm” hay “thức”. Nhưng Phật dạy rằng chẳng thà người ta nên xem thân xác vật lý của mình là “ngã” còn hơn xem tâm, ý hay thức (citta, mano,vinnàna) là ngã vì tâm, ý hay thức thì biến đổi không ngừng ngày cũng như đêm, thay đổi còn mau chóng hơn cả thể xác (kàya)[36].

Chính cảm giác mơ hồ “có tôi” đã phát sinh ý tưởng về ngã, vốn không có cái gì tương đương trong thực tại: và thấy được chân lý ấy tức là thực chứng Niết-bàn, một điều không phải dễ dàng cho lắm.

Trong kinh Tương ưng bộ Samyuttanikàya[37], có một cuộc đàm thoại khá làm sáng tỏ vấn đề về điểm này giữa thầy Tỳ kheo tên Khemaka và một nhóm Tỳ kheo. Những vị này hỏi Khemaka có thấy trong Ngũ uẩn một cái “ngã” nào hay bất cứ gì thuộc về “ngã” không. Khemaka trả lời “không”. Ðoạn những Tỳ kheo bảo nếu thế thì ông ta phải là một vị La hán đã thoát khỏi mọi ô nhiễm. Nhưng Khemaka thú thật rằng mặc dù ông không tìm thấy trong Ngũ uẩn một cái ngã nào hay bất cứ gì thuộc về ngã, “tôi vẫn không phải là một La hán (Arahant) đã thoát khỏi mọi ô nhiễm bất tịnh. Này chư hiền, đối với Ngũ thủ uẩn, tôi có cảm giác rằng “có tôi”, nhưng không thấy rõ “cái này là cái tôi”. Rồi Khemaka giải thích rằng cái ông ta gọi là “tôi” không phải sắc, không phải thọ, không phải tưởng, không phải hành, cũng không phải thức, cũng không phải bất cứ gì ngoài chúng. Nhưng ông vẫn có một cảm giác “có tôi” đối với 5 thủ uẩn, mặc dù ông không thể thấy rõ “Ðây là cái tôi.”[38]

Khemaka nói cũng giống như mùi thơm của một bông hoa: nó không phải là mùi thơm của các cánh hoa, không phải của màu hoa, không phải của đài hoa, nhưng là mùi thơm của hoa. Ông còn giải thích thêm rằng ngay cả một người đã đạt đến những giai đoạn đầu tiên của sự thực chứng vẫn còn có cảm giác “có tôi” ấy. Nhưng về sau, khi tiến xa hơn, cảm giác ấy hoàn toàn biến mất, hệt như mùi hóa học của một chiếc áo mới giặt sẽ bay mất một thời gian sau khi ra khỏi chiếc hộp đựng nó.

Cuộc thảo luận này ích lợi và làm sáng tỏ vấn đề đối với họ đến nỗi sau đó, như bản kinh ghi lại, tất cả mọi người, kể cả Khemaka, đều chứng quả A-la-hán, giải thoát mọi ô nhiễm, và thế là cuối cùng họ đã đánh tan được cảm giác “có tôi “.

Theo giáo lý Phật, chấp rằng “tôi không có ngã” (tức là thuyết đoạn diệt) cũng sai lầm như chấp rằng “tôi có ngã” (thuyết trường tồn), bởi vì cả hai quan niệm đều trói buộc, đều phát sinh từ ý tưởng sai lầm “có tôi”. Thái độ đúng đối với vấn đề vô ngã là không nắm giữ một quan điểm hay “kiến” nào, mà cố nhìn sự vật một cách khách quan, nhìn chúng như sự thật, không có những dự phóng của tâm thức. Phải thấy rằng cái mà ta gọi là “tôi” hay “ngã” chỉ là một kết hợp của các uẩn vật lý và tâm linh, hoạt động tương quan mật thiết lẫn nhau trong một dòng biến chuyển từng sát na, chịu chi phối của luật nhân quả, và trong toàn thể hiện hữu, không có gì là trường cửu, vĩnh viễn bất biến.

Ở đây một câu hỏi tự nhiên đặt ra: “Nếu không có ngã, thì ai chịu những hậu quả của nghiệp (hành động)?” Không ai có thể giải đáp câu hỏi này hơn Phật. Khi một Tỳ kheo hỏi Ngài câu đó, Phật dạy: “Hỡi các Tỳ kheo, Ta đã dạy các ông thấy rõ tính duyên khởi trong mọi sự vật.”[39]

Giáo lý Phật về Vô ngã không nên được xem như tiêu cực hay hủy diệt. Cũng như Niết-bàn, đấy là Chân lý, Thực tại, và Thực tại thì không bao giờ là tiêu cực. Chính niềm tin sai lầm vào một cái ngã tưởng tượng không có thực mới là tiêu cực. Giáo lý Vô ngã xua tan bóng tối của tà tín và phát sinh ánh sáng trí tuệ. Nó không tiêu cực, như Vô Trước(Asanga) đã nói rất đúng: “Có một thực tại là Vô ngã” (nairàtmyàstità) [40].

 



Ghi chú:

[1] Mhvg. (Alutgama, 1922), p.4 ff.; MI (PTS), p.167 ff.

[2] Sẽ được giải thích sau này.

[3] M III (PTS), p.63, S II (PTS), pp. 28, 95 etc. Theo hình thức ngày nay: khi A có, thì B có; khi A sinh, thì B sinh; khi A không có, thì B không có; khi A diệt, thì B diệt.

[4] Vism (PTS), p.517

[5] Xem Chương Ba.

[6] Vì giới hạn sách không cho phép bàn đến lý thuyết quan trọng nhất này trong Phật giáo. Một khảo luận phê phán và tỷ giáo chi tiết đề tài ấy sẽ được tìm thấy trong một tác phẩm sắp xuất bản về Triết học Phật giáo do cùng một biên giả.

[7] Sàratha II (PTS), p.77

[8] Mh. Sùtràlankàra, XVIII 92

[9] H. Von Glasenapp, “Vedanta và Buddhism” vấn đề vô ngã trong The Middle Way”, Feb. 1957, p.154

[10] Xem các sách của bà Rhys Davids: Gotama the Man, Sàkya on Buddhist Origins, A Manual of Buddhism, What was the Original Buddhism, v.v..

[11] M I (PTS), pp.136-137

[12] Ðược trích trong MA II (PTS), p.112

[13] Chữ Dhammà, pháp, ở đây được F.L. Woodward trong tác phẩm The Buddha Path of Virtue dịch là “all states compounded” – tất cả những gì được kết hợp- là hoàn toàn sai, từ ngữ này ám chỉ hành.

[14] Samkhàra trong năm uẩn có nghĩa “hành” hay “những hoạt động tâm lý” phát sinh nghiệp quả. Nhưng ở đây có nó nghĩa mọi sự vật bị giới hạn hay bị kết hợp, gồm cả năm uẩn. Danh từ Samkhàra có nghĩa khác nhau tùy trường hợp.

[15] Cf. Sabbe Samkhàra aniccà “mọi sự vật giới hạn là vô thường” Sabbe dhammà anattà “mọi pháp đều là vô ngã” M I (PTS), p.228; S II, pp., 132-133.

[16] MI (PTS), p.137

[17] Ibid, p.138. Nói đến đoạn này, S. Radhakrishnan (Indian Philosophy, Vol. I, London, 1940, p.485) viết “chính quan niệm sai lầm về sự tương tục vĩnh viễn của tiểu ngã mới bị đức Phật bác bỏ”. Ta không thể đồng ý với nhận xét này. Trái lại ở đây đức Phật bài bác cả Ðại ngã hay linh hồn. Như ta đã thấy vừa rồi, trong một đoạn trước, đức Phật không chấp nhận một cái ngã nào, dù lớn hay nhỏ. Theo quan niệm của Ngài, mọi lý thuyết về Atman đều là sai lầm, là bóng dáng của tâm thức.

[18] Trong bài “Vedanta and Buddhism” (The Middle Way, February, 1957), H. Von Glasenapp nói điểm này rất rõ.

[19] Và Anàtha là không nơi nương tựa, Lokanàtha là chỗ nương của thế gian, chứ không phải là chúa tể thế gian.

[20] D II (Colombo, 1929), p.62

[21] Rhys Davids (Dìgha-nikàya bản dịch II, p.108) dịch: “Be ye lamps unto yourselves. Be ye a refuge to yourselves. Betake yourselves to no external refuge!” — Hãy là ngọn đèn cho chính ngươi, chỗ nương cho chính ngươi, chớ nương tựa vào ai khác.

[22] Dìpa đây không có nghĩa là đèn, mà nhất định có nghĩa “đảo”. Dìgha-nikàyà (Trường Bộ kinh sớ giải) (DA Colombo ed., p380) bàn về chữ Dìpa ở đây nói:
“Mahàsamuddagatam dìpam viya attànam dìpam patittam katvà viharatha”. “Hãy làm một hòn đảo cho chính người, một nơi nương cậy (nghỉ ngơi) như một hòn đảo giữa bể khơi”. Samsàra, sinh tử, thường được ví như một đại dương, Samsàrasàgara, và cái gì cần thiết để đựơc an ổn giữa đại dương là một hòn đảo, đất liền chứ không phải một ngọn đèn.

[23] D II (Colombo, 1929), pp. 61-62 chỉ có câu cuối được dịch nguyên văn. Phần còn lại của câu chuyện được kể vắn tắt theo kinh Ðại Bát Niết Bàn.

[24] Ibid p.62. Về Satipatthàna xem chương VIII về Thiền định.

[25] Mhvg (Alutgama, 1929), pp. 21-22

[26] Vào một dịp khác, đức Phật đã bảo chính Vacchagotta này rằng đức Như Lai không có lý thuyết nào hết, bởi vì Ngài đã thấy rõ bản chất của sự vật [M I (PTS), p. 486]. Ở đây cũng thế, Ngài không muốn liên kết với bất cứ lý thuyết gia nào.

[27] Sabbe dhammà anattà. Chư pháp vô ngã. Ðúng y dòng đầu kinh Pháp cú, XX, 7, đã dẫn ở trên. Woodward đã hoàn toàn sai khi dịch những chữ này là “mọi sự đều vô thường” (Kindred Saying V, p.282) có lẽ vì sơ ý. Những lỗi này rất hệ trọng. Có lẽ đây là một trong những lý do vì sao người ta đã có quá nhiều cuộc luận đàm vô ích về cái im lặng của đức Phật. Chữ quan trọng nhất trong câu này, chữ anatta “vô ngã”, đã được dịch là “vô thường”. Những bản dịch kinh Pàli ra Anh ngữ thường có những lỗi lầm lớn nhỏ thuộc loại này khi thì vì sơ ý và bất cẩn, khi thì vì thiếu chuyên môn trong ngôn ngữ của nguyên bản. Dù sao, thiết tưởng cũng không vô ích khi nhắc lại ở đây- mà vẫn không quên ơn những bậc tiền phong trong địa hạt này- rằng, chính những lỗi lầm ấy đã gây ra nhiều tư tưởng sai lầm về Phật giáo trong những người không đọc được nguyên bản. Bởi thế ta cũng lấy làm mừng khi biết rằng cô I. B. Horner, thư ký của hội Pàli Text, đã dự định xuất bản lại những bản dịch mới có sửa chữa.

[28] Xem Ghi chú số 33 bên dưới.

[29] S IV (PTS), pp. 400- 401

[30] Trí này của Phật được gọi là Indriyaparopariyattanàna, biết căn tánh chúng sinh. M I (PTS), p.70, Vibh (PTS), p.340.

[31] A (Colombo, 1929) p.216

[32] Ví dụ: S IV (PTS), pp. 393-395, M I (PTS), p.484

[33] Quả vậy, vào một dịp khác trước đấy, khi Phật giải thích vấn đề sâu xa vi tế – Vấn đề vị La-hán chết rồi sẽ ra sao – Vacchagotta nói: “Thưa Ngài Cồ-đàm, ở đây tôi bị rơi vào ngu tối, tôi hoang mang. Những gì mà tôi ít tin tưởng lúc bắt đầu câu chuyện với Ngài, những gì đó bây giờ cũng đã tan biến mất.” (M I (PTS) p.489). Vì vậy mà đức Phật không muốn làm cho anh ta hoang mang thêm.

[34] Ví dụ: xem S III (PTS), pp. 257-263, IV, pp.391 f., 395 f., 398f., 400; MI, pp. 481 f., 483 f., 489 f., A V p. 193.

[35] Bởi vì ta thấy rằng sau đó, Vacchagotta lại đến thăm đức Phật, nhưng lần này anh chàng không hỏi gì như thường lệ, mà lại nói: “Ðã lâu nay tôi mới lại đến thăm Ngài. Tôi mong Ngài Cồ Ðàm sẽ giảng cho tôi vắn tắt về Thiện và Ác”. Phật dạy rằng Ngài sẽ giảng cho ông về Thiện và Ác, vắn tắt cũng như chi tiết, và Ngài đã làm thế. Cuối cùng Vacchagotta trở thành một đệ tử của đức Phật, và theo giáo lý Ngài, ông đắc quả A-la-hán, thực chứng Chân lý, Niết-bàn, và khi ấy những vấn đề ngã và các vấn đề khác không còn ám ảnh ông. M I (PTS), pp. 489-ff.

[36] S II (PTS), p.94. Vài người cho rằng “Như Lai Tạng” hay “Tạng thức” trong Ðại thừa giáo là một cái gì tương tự “Ngã”. Nhưng kinh Lăng già nói hẳn rằng đấy không phải là Ngã (Lanka, p.78-79).

[37] S III (PTS) pp. 126 ff.

[38] Ðiều này cũng chính là điều mà ngày nay phần nhiều người ta thường nghĩ về Ngã.

[39] M III (PTS) p. 19; S III, p. 103.

[40] Abhisamuc, p.31.

Trích: Đức Phật đã dạy những gì (Chương 6)

Nguồn gốc tư tưởng Trung Quán Luận

Long Thọ (Nagarjuna) sinh ra vào khoảng thế kỷ II – III TL tại Ấn Độ, khi xã hội có những biến động về kinh tế, chính trị, tư tưởng…Ngài đã sáng tác Trung quán Luận là một bộ luận quan trọng nhất, với triết lý Tính Không, với biện chứng pháp phủ định độc nhất vô nhị. Nguồn gốc tư tưởng Đại thừa Phật giáo đã có từ thời Đức Phật còn tại thế. Tư tưởng Đại thừa ban đầu bắt nguồn từ phía Nam Ấn Độ, nơi căn cứ của Đại Chúng Bộ. Cũng ở đây đã nảy nở ra tư tưởng “Bát Nhã”, cội nguồn của tư tưởng “Không”.

Long Thọ Bồ Tát được gọi là Thích Ca Mâu Ni thứ 2

Nếu như Mã Minh Bồ Tát là người khởi sướng ra tư tưởng Đại thừa thì Long Thọ đã có công hệ thống, chú thích, luận giải và hệ thống những kinh điển đã có sẵn trên tinh thần Đại thừa, từ đó khẳng định tư tưởng Đại thừa đã có sẵn trong kinh điển gốc Nguyên thủy như: Đại Phẩm Bát Nhã gồm 25000 bài tụng tức Phóng Quang Bát Nhã;Tiểu Phẩm Bát Nhã gồm 8000 bài tụng, tức là Hành Đạo Bát Nhã, để hiểu biết được chư pháp đều là không; Duy Ma Kinh cũng chủ trương tư tưởng “không”(1). Điểm chung trong kinh điển là tư tưởng về bản thể Không, mà Long Thọ đã nắm bắt, thể hiện trong Trung Quán Luận. Có thể nói nguồn gốc tư tưởng của Trung Quán Luận ở ngay trong hệ thống kinh điển vốn có của Phật giáo Nguyên thủy. Đặc biệt là bộ Kinh tạng Bát Nhã – một bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, mà Long Thọ đã chú thích, luận giải tư tưởng “không” trong đó một cách hệ thống trên tinh thần mới mẻ của Đại thừa, và cũng như sau này ông sáng tác thành công Trung Quán Luận bất hủ.

Tóm lại, về mặt tư tưởng, Long Thọ tiếp thu tư tưởng Đại thừa của các nhà tư tưởng Phật giáo đi trước, và với trí tuệ xuất sắc “biện tài nghị biện vô ngại”, và ông được coi là một trong những triết gia đầu tiên trong cuộc cách tân lịch sử tư tưởng Phật giáo Đại thừa.

1. Kinh Bát Nhã – một bộ kinh tối cổ của Phật giáo Đại thừa

Về niên đại của văn bản, Kinh Bát Nhã là một bộ kinh tập hợp lâu dài nhất, qua nhiều thế kỷ, từ thế kỷ I TCN tới thế kỷ III SCN, và còn tiếp tục về sau. Đây chính là bộ kinh Đại thừa đồ sộ xuất hiện sớm nhất.

Tên bộ kinh lớn đầy đủ là Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Skrt: Maha- Prajna paramita). Tiếng Phạn Prajna chuyển âm Hán-Việt là Bát Nhã, nghĩa là trítuệ, thông thái rốt ráo, hoàn hảo. Kinh Bát Nhã nhờ phát hiện của Long Thọ đã trở thành kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Song trước đó nó chỉ được coi là văn học loại văn nghệ. Kinh Bát Nhã từ đó được coi là giáo pháp thông cả ba thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát) do chính đức Phật tổ thuyết giảng. Cũng theo các Phật truyền thìKinh Bát Nhã được đức Phật giảng tại 16 hội khác nhau như: giảng tại núi Linh Thứu, thành Vương Xá, Phật, tại Lâm Viên Kỳ Đà của Cấp Cô Độc, thuộc Thất La Phiệt Thành, tại Ma Ni Bảo điện, cung Tha Hóa Tự Tại, cuối cùng Phật giảng tại hồ Bạch Lộ thuộc tịnh xã Trúc Lâm Phật giảng hội 16.Toàn bộ truyền thuyết này nhằm chứng minh rằng KinhBát Nhã là bộ kinh nguyên thủy nhất của giáo lý Đại thừa, vốn có từ thời đức Phật tổ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu bộ kinh này chưa được chú trọng, sau tới khoảng 700 năm sau Phật diệt, khoảng cuối thế kỷ thứ II-III SCN, Long Thọ là người đầu tiên sưu tập và hệ thống lại KinhBát Nhã.

Nội dung tư tưởng của kinh Bát Nhã từ nguyên thủy đã xác định rõ mục đích giải thoát, nhằm đạt tới Niết Bàn là bằng đạo đức, trí tuệ và tu hành thiền định mà đức Phật tổ đã vạch rõ trong Tứ Diệu Đế. Kimura Taiken có nhận định rằng: “Bát nhã là bộ kinh tối cổ và căn bản nhất trong các kinh Đại thừa. Tư tưởng “không” trong kinh Bát nhã là kết luận của Duyên – sinh – quan trong Nguyên thuỷ Phật giáo, là một tổng hợp của các tư tưởng “không” đối với bộ phái Phật giáo mà đã đồng thời phát đạt. Nhân – sinh – quan, thế – giới – quan trong tất cả các kinh Đại thừa đều được xây dựng trên nền tảng Bát Nhã”(2). Do vậy, tư tưởng Bát nhã chính là “sản phẩm đầu tiên của Đại thừa, dù nói theo thể động hay thể tĩnh, nó đã trở thành cơ sở của tất cả tư tưởng Đại thừa” ([2]). Hoà thượng Thích Trí Thủ đã khẳng định trong chuyên khảo Bát Nhã Tâm Kinh rằng vai trò, vị trí đặc biệt của nó đối với toàn bộ tư tưởng Đại thừa: “…nói đến Phật giáo Đại thừa là nói đến Bát nhã, vì không có Bát nhã thì không thể có Phật giáo Đại thừa, Bát nhã là đầu mối, là mạch nguồn để từ đó các trào lưu Đại thừa khởi dậy”(3).

Về niên đại, hiện nay còn có ý kiến chưa thống nhất về niên đại xuất hiện các tập Bát nhã này. Tuy nhiên, có quan niệm khác cho rằng, những bản kinh nào có dung lượng lớn nhất thì là những kinh nguyên thuỷ còn kinh ngắn là phần lược bớt của những người về sau này(4).

Qua quá trình nghiên cứu, họ cho rằng, bản kinh Bát Nhã xuất hiện sớm nhất chính làBát Thiên Tụng Bát Nhã (Astasahasrika prajnaparamita) hay còn gọi là Tiểu phẩm Bát Nhã. Bản kinh này xuất hiện vào khoảng thế kỷ I TCN và “Bát nhã-ba-la-mật-đanày được bắt đầu từ phương Nam, rồi truyền sang phương Tây, lại từ phương Tây truyền sang phương Bắc”(5).

Về tính chính truyền của văn bản, Kinh tạng Bát nhã được tập thành tương đối muộn so với kinh tạng nguyên thuỷ, khoảng 400 năm sau Phật nhập Niết bàn. Tuy nhiên, kinh Bát Nhã vẫn đảm bảo được nội dung giáo lý căn bản của Phật dạy như: giáo lý Duyên khởi, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chính đạo, Tứ niệm xứ, Ngũ uẩn… Bởi thế, các nhà Đại thừa sau này đều coi kinhTạng Bát Nhã là những kinh văn chính truyền của Phật và được các đệ tử, luận sư triển khai rộng rãi theo nhu cầu phát triển của Phật giáo mỗi giai đoạn cụ thể([4])

Theo Đại Trí Độ Luận (Maha prajnaparamita sastra), là một tác phẩm luận giải quan trọng về tư tưởng Bát nhã, khi nêu lên nghi vấn: “vì nguyên nhân gì mà Phật thuyết kinhĐại Bát Nhã”. Đại sư Long Thọ đưa ra nhiều lý do để giải quyết vấn đề này: “vì muốn giảng đầy đủ các hạnh Bồ tát, vì muốn phá vỡ những quan niệm cực đoan trong tâm thức đệ tử và đưa họ vào trung đạo nên Phật thuyết Kinh Đại Bát Nhã-Ba-La-mật(6). Hay vì “… muốn dùng cách khác để nói về Tứ niệm xứ, về Ngũ uẩn, nên Phật thuyếtKinh Đại bát nhã Ba-la-mật-đa”([6]). Thế nên, ngay từ thế kỷ II SCN luận sư Long Thọ xác nhận kinh tạng Bát nhã chính là “dùng kiểu khác” để lý giải về giáo lý nguyên thuỷ. Đó là lý do mà các nhà Đại thừa sau này đều thống nhất khẳng định tính chính truyền của Kinh tạng Bát nhã cũng như một số kinh điển khác của Đại thừa.

Tóm lại, trong các kinh điển Đại thừa, thì kinh Bát Nhã được hình thành sớm nhất và làm nền tảng tư tưởng cho sự phát triển toàn bộ các nhánh phái Đại thừa về sau.

2. Cốt lõi tư tưởng của Bát nhã được Long Thọ phát triển trong Trung Quán Luận

Hoà thượng Thích Thiện Hoa có nhận xét rằng: “Phật nói kinh Đại Bát Nhã, tại 4 chỗ, 16 hội, chép đến 600 quyểnmới hết (Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm). Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, gọi tắt là Kinh Kim Cương là tóm tắt cô đọng nhất toàn bộ kinh Đại tạng Bát Nhã. Rút gọn lại hơn trong một bài kinh là “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, gọi tắt là Tâm Kinh, gồm 260 chữ. Hơn nữa, Phật còn dạy: “Ta không nói một chữ”(7).

Hình ảnh Long Thọ Bồ Tát thế kỷ II- III SCN

Tư tưởng cốt lõi của kinh Bát Nhã là bàn về bản thể “Không của vạn pháp”. Hiểu được chữ “Không” này là hiểu được toàn bộ hệ thống KinhBát Nhã. Trọng tâm củaKinh Bát Nhã Ba La Mật là dùng trí Bát Nhã, phá trừ rốt ráo (Ba la mật) các vô minh vọng chấp: ngã, pháp hay bốn tướng” (Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ giả), để vượt ngoài mọi đối đãi nhị nguyên.

Dựa trên tư tưởng Tính không này trong kinh Bát nhã mà Long Thọ đã triển khai phát triển thành tư tưởng “Trung Đạo” xuyên suốt trong tác phẩm Trung Quán Luận. Mục đích của Trung Quán Luận là nhằm phá hai thứ chấp căn bản của Phật giáo Tiểu thừa, và khả năng chuyển biến cái giá trị căn bản của nhân sinh, và đưa nhân sinh tới chỗ vượt hẳn sự đối lập nhị phân về khổ-vui, giầu-nghèo, mê-ngộ, hay thiện-ác(8).

Tư tưởng “chân không diệu hữu” của Kinh Bát Nhã chính là cốt lõi cơ bản của tư tưởng Đại thừa Phật giáo, mà Trung Quán Luận của Long Thọ đã kế thừa phát triển.

3. Giới thiệu chung về Trung Quán Luận

Dần theo thời gian 300, 400 năm sau Phật nhập Niết Bàn, các bộ phái cứ tiếp tục ra đời và con số đã lên đến 20. Mỗi một học phái chủ trương theo một đường lối nhận thức khác nhau. Vào khoảng thế kỷ thứ I, II SCN, các quan niệm về Đại thừa có từ thời kỳ Bộ phái dần định hình và Phật giáo Đại thừa xuất hiện như một khuynh hướng tư tưởng tự do của Phật giáo lúc đó. Song, những tư tưởng, nhận thức sai lầm, xuyên tạc lời và ý Phật cũng không ít. Đứng trước tình cảnh hỗn loạn của tư tưởng giới Phật học Ấn Độ đương thời, Bồ tát Long Thọ bắt đầu trước tác bộTrung Quán luận bằng phương pháp phủ định biện chứng nhằm thống nhất giáo lý Phật giáo trên tư tưởng Đại thừa trước các lý luận bảo thủ cố chấp và ngoại đạo tà giáo. Đóng góp của Trung Quán Luận là đáp ứng đòi hỏi về tư tưởng triết học của Phật giáo trong một thời kỳ phát triển mới về chất.

3.1. Giới thiệu về văn bản, dịch bản của Trung Quán Luận

Tác phẩm gốc của bộ luận này nguyên văn bằng tiếng Sanskrit được soạn t ại Ấn Độ. Cũng giống tình trạng các kinh điển, nhiều luận điển có liên quan đến Phật giáo Đại Thừa hầu hết đã bị thất lạc do quá trình tranh chấp giữa các đạo với Phật giáo, nhằm hạ gục nhau về mặt tư tưởng giáo lý, cách sinh hoạt tu tập hằng ngày… Nhưng những bản dịch sang Trung ngữ, Nhật ngữ và Tây Tạng ngữ thì hiện vẫn còn được lưu giữ khá tốt đã góp phần bảo tồn một cách hiệu quả nhiều kinh điển của Phật giáo Ấn Độ.

Trung Quán Luận nó được coi là nền tảng của trường phái Trung Quán ở Ấn Độ, đến thế kỷ V đã được truyền sang Trung Quốc và được dịch sang Hán ngữ để truyền bá và phổ cập, rồi được coi là một trong ba kinh điển nền tảng của phái Tam Luận Tông ở Trung Quốc(9).

Chính vì để thực hành quán tưởng nên mặc dù nhan đề của ngài Long Thọ là Trung Luận hay Trung Đạo Luận, nhưng về sau, các đại sư Trung Quốc (nhất là Tam Luận tông) lại thêm vào chữ Quán thành Trung Quán Luận. Điều này cũng hợp lý vì mỗi phẩm theo bản dịch của Cưu Ma La Thập đều bắt đầu bằng chữ Quán hay Phá. (10).

Những bản dịch về Trung Quán Luận thì rất nhiều, mỗi thời có những dịch giả khác nhau: Bản dịch Hán văn Trung Quán Luận của Cưu Ma La Thập đến này vẫn được giới Phật học coi là văn bản chuẩn mẫu mực nhất. Bản dịch này liên tục được dịch tiếp sang các thứ tiếng khác trong quá trình tryền bá và phát triển Phật giáo Đại thừa nói chung và Thiền Tông Trung Quốc nói riêng. Bên cạnh bản dịch, còn có các bản chú giải khác như: Ngài Vô Trước (Asvagosha) chú giải và Cù Đàm Bát Nhã Lưu Chi (Gautama- Prajnaruci) dịch với tựa đề “Thuận Trung Luận Nhập Đại Bát Nhã Ba La Mật Sơ Thẩm Pháp Môn” gồm 2 quyển; Cưu Ma La Thập (đời Hậu/ Diêu Tần) dịch sang Hán, được coi là văn bản mẫu mực nhất đến nay; Trung Quán Thích Luận do An Tuệ chú giải, Duy Tịch đời Tống dịch ra Hán văn, lấy tựa là Đại thừa Trung Quán Thích Luận, gồm có 9 quyển; Bát Nhã Đăng Luận Thích của Thanh Biện chú giải, Ba La Phả Mật Đa La dịch ra Hán văn với lời bạt có tên Bát Nhã Đăng Luận Thích, gồm 15 quyển.

Hiện nay có một số bản dịch Trung Quán Luận sang Tiếng Việt như là: Bản dịch Việt ngữ Trung Quán Luận của HT Thích Tâm Thiện, từ “bản Hán dịch của Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập”, có dẫn chứng nguyên văn bản gốc bằng tiếng Phạn của tác phẩm Trung Quán Luận của Long Thọ Bồ tát, có kèm theo bản dịch của Cưu Ma La Thập dịch sang Hán văn, và do Thanh Biện chú giải. Bản Dịch và giải của Chánh Tấn Tuệ về Trung Quán Luận vào năm 2001, Nxb Tôn Giáo. Bản dịch và giảng của Thích Thanh Từ về Trung Quán Luậnvào năm 2008, Nxb Tôn giáo. Ngoài ra còn có nhiều bản dịch và chú giải khác của nhiều dịch giả và Phật học ở phương Đông cũng như phương Tây([9]).

Nhìn chung trong số bản dịch trên, bản dịch đã lấy được các ý cho mọi người dễ hiểu, bất chấp là dài hay ngắn, mục đích là câu cú đời thường dễ hiểu. Ví dụ như theo kệ chữ Hán là 4 câu năm chữ, nhưng khi dịch sang nghĩa tiếng Việt thì lại nhiều chữ hơn: “Bất sinh diệc bất diệt” dịch là: “Tất cả pháp vốn không sinh cũng không diệt”(11).

3.2. Khái lược nội dung và kết cấu của Trung Quán Luận

– Về nội dung Trung Quán Luận , mỗi chương đều có những nội dung riêng biệt với mục đích chính là lý giải cho được tư tưởng chính của Phật về các pháp đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, thực tướng của chúng là Tính Không; Mục đích là nhằm để “phá” sai lầm của cả Tiểu thừa cũng như của Đại thừa, trong tiến trình dựng xây kiến giải mới, cũng như “phá” chấp để phục hưng chính pháp. 27 chương đó có thể chia thành nhiều cách khác nhau cũng là biện pháp để nghiên cứu thấu đáo hơn tư tưởng triết học của Long Thọ. Song nếu nhìn khái quát toàn bộ, Trung Quán Luận là một bộ luận có tính khái quát cao, trình bày một cách hệ thống khúc chiết các vấn đề cơ bản của Phật giáo Đại thừa: Nguyên lý Tính Không (Sunyata), phương pháp Trung đạo, Duyên khởi cũng chỉ là một trong “chân như diệu hữu” hay “trung đạo”.

Cũng như nhiều nhận định của các nhà nghiên cứu cho rằng: “Bồ Tát Long Thọ dựa trên tư tưởng Kinh Kim cương Bát Nhã sáng tác bộ Trung Quán Luận, đưa ra học thuyết Chân Không (Sunya), một tư tưởng luận lý mới mẻ, chặt chẽ, tinh vi, làm xáo động học lý truyền thống tôn giáo Ấn Độ thời bất giờ. Các triết gia, học giả phương Tây ngày nay cũng khâm phục, tán dương phương pháp lý luận của Bồ Tát Nagajuna có một không hai”(12).

Tuy vậy, điểm gặp nhau của kết quả nghiên cứu nghiêm túc Trung Quán Luậnlà đều lĩnh hội được tư tưởng “nhất thiết pháp không” của Long Thọ thể hiện nhất quán qua tất cả các chương, các quyển([11]).

Về kết cấu Trung Quán Luậ: Theo Thích Tâm Thiện đã chia kết cấu Trung Quán Luận gồm có 4 quyển, thành 27 phẩm, với 446 bài tụng. Mỗi bài tụng gồm 4 câu, mỗi câu có năm chữ, tổng cộng gồm 1784 câu, tương đương 8920 chữ([11]). Cách chia này khá chi tiết, rõ ràng và phù hợp với nhu cầu nghiên cứu về lịch sử tư tưởng và tư tưởng triết học của đề tài Luận văn này. Song để chính xác hơn, có thể so sánh với một vài cách chia kết cấu khác.

Nếu như căn cứ vào nguyên bản Hán văn về Trung Luận do Diêu Tần Tam Tạng Cưu Ma La Thập dịch thì Trung Luận được chia làm bốn quyển: Quyển một bao gồm 27 phẩm: từ phẩm 1. Quán nhân duyên…cho tới phẩm 27. Quán tà kiến. Nguyên bản dịch Hán văn của La Thập có kết cấu gần với nguyên bản Sanskrit cũng là một tư liệu để chung ta khảo cứu ý nghĩa của Long Thọ về mặt tư tưởng trong Trung Quán Luận.

Ngoài ra còn các kết cấu khác, chẳng hạn, Chánh Tấn Tuệ cũng cho rằng kết cấu nội dung của Trung Quán Luận có thể chia thành 27 phẩm, trong mỗi phẩm đó gồm các bài tụng như phẩm 1. gồm 16 bài tụng; 2. gồm 25 bài tụng;…; 27. gồm 31 bài tụng. Tổng cộng gồm 426 bài tụng, mỗi bài tụng có 4 câu, mỗi câu gồm 5 chữ, tổng cộng 8.680 chữ. Cách phân chia này giúp cho người học, nghiên cứu, tu tập dễ tránh được nhầm lẫn, song cách chia theo phẩm là chương vậy không đi sâu vào khai thác kết cấu tư tưởng trong đó(13).

Theo Hoàng Thị Thơ, kết cấu 27 chương của Trung Quán Luận nếu chia kết cấu theo tư tưởng triết học thì có thể chia thành 2 phần chính: 25 chương đầu là phá chấp của Đại thừa, còn 2 chương cuối là phá mê chấp của Tiểu thừa(14).

Đoàn Trung Còn cho biết thêm rằng, “Bộ Trung Luận kêu trọn chữ là Trung Quán Luận, hiệp lại bốn quyển, minh ra cái lý chơn thiệt của nền Trung đạo Đại thừa. Do ngài Long Thọ Bồ tát soạn hồi thế kỷ thứ hai, ngài Thanh Mục Bồ tát thích và ngài Cưu Ma La Thập dịch ra Hán văn. Tất cả 500 câu kệ (nhưng thiệt ra chỉ có 496 câu), 27 phẩm, 25 phẩm đầu phá sự mê chấp của Đại thừa… Còn 2 phẩm cuối phá sự mê chấp của Tiểu thừa…”. Ban đầu bộ luận này chỉ có 596 bài kệ sau này thành 500 bài kệ, có lẽ La Thập Dịch xong rồi thêm bốn bài kệ cho đủ 500 bài kệ, thuận cho việc dễ nhớ dễ nghiên cứu, hiểu Trung Quán Luậnhơn(15). Tuy nhiên xét trên bình diện khách quan của các phẩm thì chúng ta thấy các cách chia kết cấu trên đều có lý, cũng có thể làm cơ sở để khảo cứu sau này về Trung Quán Luận.

Tóm lại, bàn về nguồn gốc tư tưởng của Trung Quán Luận, chúng ta đi sâu phân tích lịch sử Kinh Bát Nhã – một bộ kinh tối cổ của Phật giáo Đại thừa, và làm rõ cốt lõi tư tưởng được Long Thọ phát triển từ Kinh Bát Nhã là tư tưởng Tính Không. Long Thọ đã tiếp thu tư tưởng Không của Bát Nhã để xây dựng thành công tư tưởng Trung đạo của mình, làm cơ sở để hệ thống hoá toàn bộ kinh điển Đại thừa và cổ xuý cho Phật giáo Đại thừa hưng thịnh và lan toả cho tới hôm nay.

Qua Trung Quán Luận của Long Thọ giới thiệu rõ, sự ra đời , văn bản và bản dịch, kết cấu nội dung, từ góc độ triết học tư tưởng Trung đạo, kết cấu củaTrung Quán Luận có nhiều cách chia bố cục, song cách phân chia kết cấu có khác nhau, song đều nhằm làm sáng tỏ, dễ hiểu nội dung và tư tưởng Không, hay Trung đạo mà Long Thọ muốn gửi gắm trong Trung Quán Luận.

***

(1) Thích Thanh Kiểm, Lược Sử Phật Giáo Ấn Độ, Quê Hương Tái Bản Lần Thứ Nhất, 1971, tr.231-235.

([2]) Kimura Taiken, Nguyên Thuỷ Phật giáo tư tưởng luận, Thích Quảng Độ dịch, Nxb Thành Hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1998, tr.63.

(3) Thích Trí Thủ dịch, Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật, Phổ Hiền Tùng Thư, TP. Hồ Chí Minh, 1996, tr.1.

([4]) Đoàn Văn An, “Tư tưởng triết học trong Kinh Kim Cương” Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2011, tr.39-40.

(5) Kimura Taiken (1998), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Thích Quảng Độ dịch, Nxb Thành Hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1998, tr.57.

([6]) Thích Thiện Siêu, Luận Thành Duy Thức. Nxb. Phật Học Viện Quốc tế,n 1997, tr.21.

(7) Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 2008, tr.557.

(8) Thích Hạnh Bình, Triết Học Có Và Không, Nxb. Phương Đông. Hà Nội, 2007.

 

([9]) Hoàng Thị Thơ, Lịch Sử Tư Tưởng Thiền Từ VêĐa Ấn Độ Tới Thiền Tông Trung Quốc, Nxb.Khoa Học Xã Hội. Hà Nội, 2005, tr.150.

(10) David J, Kalupahana dịch và chú dịch, Mulamadhyamakakatika Of Nagajuna, Delhi, 1996.

([11]) Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư Tưởng Và Triết Học Tánh Không, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr.130.

(12) Thích Quảng Liên dịch và giải, Trung Quán Luận, Nxb Tôn Giáo, 2007, tr.2-3.

(13) Chánh Tấn Tuệ dịch và giải, Trung Quán Luận, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2001, tr.11.

(14) Hoàng Thị Thơ, “Triết học Ấn Độ Qua Một Số Tác Phẩm Tiêu Biểu” Dành Cho Cao Học Chuyên Triết Tại Học Viện Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, (Niên học 2010- 2012), tr.22.

(15) Đoàn Trung Còn, Phật Học Từ Điển, Nxb. Tổng Hợp, TP. Hồ Chí Minh, 2008, tr.1438.

http://www.vinhnghiemvn.com

Phật Giáo có tin rằng “có linh hồn tồn tại” hay không?

– Phật Giáo có tin rằng “có linh hồn tồn tại” hay không?

HT Thich Thắng Nghiêm:

– Không tin. Phật giáo không tin là có một linh hồn vĩnh hằng, bất biến. Nếu tin có linh hồn như vậy, thì đó là “thần ngã ngoại đạo”, không phải là người Phật tử chính tín.

Đúng là trong quan niệm của người bình thường, trừ những người theo duy vật luận ra, còn thì ai cũng cho rằng mỗi người đều có một linh hồn vĩnh hằng bất biến, gần đây, ở Âu Mỹ, có lập ra “Linh tri học hội”, đối tượng nghiên cứu của Hội là linh hồn. Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Lão giáo v.v… đều là những tôn giáo ít nhiều tin tưởng có linh hồn, cho rằng người ta làm thiện hay ác, sau khi chết đi, sẽ bị Thượng đế hay Diêm Vương phán xử, người tốt thì linh hồn lên thiên đường, người xấu thì linh hồn đọa địa ngục.

Ở trong dân gian Trung Quốc, sự mê tín linh hồn có gốc rễ rất sâu bền, lại còn thêm sai lầm to lớn này nữa là người Trung Quốc tin rằng, sau khi người chết linh hồn biến thành quỷ. Linh hồn là quỷ, trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, là cả một mớ mê tín lớn và bùng nhùng khó gỡ ra được. Điều đáng buồn cười là vì quỷ có chút ít thần thông cho nên lại cho rằng linh hồn là một vật tập hợp của “3 hồn 6 phách”.

Kỳ thực, quỷ chỉ là một trong 6 loại chúng sinh cũng như người là một trong 6 loại chúng sinh không khác. Sinh làm người, có sống có chết. Sinh làm quỷ, cũng có sống có chết. Nhưng người sinh từ bào thai, còn quỷ là hóa sinh. Huống hồ, người chết rồi vị tất đã làm quỷ. Vấn đề này, sẽ được bàn rõ trong một tiết khác.

Đối với linh hồn, ở Trung Quốc có rất nhiều truyền thuyết, hoặc cho rằng, trong việc sống chết của người, linh hồn có một tác dụng bắc cầu. Linh hồn đầu thai là sinh, linh hồn tách rời thân xác là chết, xem quan hệ giữa linh hồn và thân xác giống quan hệ giữa chủ hộ và nhà cửa. Nhà cũ, hư nát thì dọn đến nhà mới, nhà mới thay nhà cũ, thay đi thay lại, chủ hộ đi đi lại lại nhưng vẫn vĩnh hằng bất biến. Tức là nói con người là linh hồn, đắp thêm cái áo thân xác. Thân xác có thể thay đổi, còn linh hồn là bất biến, là chủ thể trong dòng lưu chuyển sinh tử.

Trên sự thực, Phật giáo không công nhận những quan niệm về linh hồn như vậy, vì những quan niệm đó không thể đứng vững với thuyết duyên sinh, duyên diệt của đạo Phật. Trên quan điểm sinh diệt vô thường, Phật giáo xem tất cả mọi sự vật đều sinh diệt vô thường. Trong cả hai thế giới vật chất và tinh thần, đều sinh diệt vô thường. Dùng mắt thịt mà nhìn sự vật, thì đôi khi nhìn thấy có sự vật không biến đổi, nhưng nên dùng dụng cụ khoa học tinh vi để nhìn, thì thấy không có sự vật nào là không biến đổi trong từng giây phút một. Kinh Dịch nói “sinh, sinh”, nhưng kỳ thực, ở đàng sau “sinh, sinh” là “tử, tử”, tức là biến biến, hóa hóa.

Hiện tượng vật lý trong thế giới vật chất, là sinh diệt không ngừng. Hiện tượng tâm lý tinh thần lại càng dễ quan sát. Là bởi vì, hiện tượng tâm lý nảy sinh là do tinh thần biến động. Hiện tượng tâm lý biến động, dẫn tới hành vi thiện, ác. Hành vi thiện ác ảnh hưởng trở lại khuynh hướng tâm lý, tiền đồ của chúng ta, tương lai của chúng ta được quy định bởi tác dụng tuần hoàn đó của tâm lý ảnh hưởng tới hành vi, và hành vi ảnh hưởng trở lại tâm lý.

Thử hỏi : Làm sao có thể có linh hồn bất biến, linh hồn vĩnh hằng ? Dường như là không thể có được, không những người chết rồi, không có linh hồn cố định, mà ngay khi còn sống, thân tâm chúng ta đều biến đổi không ngừng trong từng phút giây một. Thế nhưng, Phật giáo đã không tin có linh hồn, thì bản thể của việc luân hồi trong sáu cõi và siêu phàm nhập thánh là gì ? Hay nói cách khác, cái gì “luân hồi”, cái gì “siêu phàm, nhập thánh” ?

Đây chính là điểm ưu việt đặc thù của Phật giáo, vừa không xem trọng giá trị vĩnh cửu của tự ngã, lại vừa khẳng định giá trị hướng thượng của tự tính.

Phật giáo chủ trương thuyết “nhân duyên sinh” và “tự tính vốn là không” (tự tính bản không).

Phật giáo xem vật chất là nhân duyên sinh, xem tinh thần cũng là nhân duyên sinh. Nhân duyên tụ hội gọi là sinh, nhân duyên ly tán, gọi là diệt. Lớn như một tinh cầu, một thiên thể cho đến cả thế giới vũ trụ, nhỏ như một sợi cỏ, một hạt bụi, một nguyên tử… không có một sự vật nào là không do nội nhân, ngoại duyên hội tụ mà tồn tại.

Nếu loại bỏ nhân và duyên ra, không có một sự vật nào có thể tồn tại được. Vì vậy, nếu xét trên căn bản, thì không có một sự vật nào hết. Về vấn đề này, các nhà khoa học vật lý và hóa học, có thể cung cấp cho chúng ta câu trả lời chính xác và chính diện.

Còn tinh thần là gì ? Phật giáo tuy bác thuyết linh hồn, nhưng không phải là theo duy vật luận. Cái gọi là tinh thần thì Phật giáo gọi chúng bằng danh từ “thức”. Phật giáo Tiểu thừa chỉ nói sáu thức, và lấy thức thứ 6 (đệ lục thức) làm chủ thể của sinh mạng. Phật giáo Đại thừa nói thêm hai thức nữa, tổng cộng có tám thức, và lấy thức thứ tám (đệ bát thức) làm chủ thể của sinh mạng. Ở đây, chỉ giới thiệu thuyết tám thức của Đại thừa.

Trong 8 thức của Đại thừa, thì sáu thức đầu giống như sáu thức của Tiểu thừa, và phân tích sâu hơn công năng của thức thứ sáu, nhận ra thêm thức thứ bảy và thức thứ tám.

Trên thực tế, chủ thể của 8 thức chỉ có một, nhưng do phân tích công năng mà chia thành tám. Làm ác, làm thiện là bảy thức đầu, và đem các nhân thiện, ác đó ký gửi ở thức thứ tám. Thức thứ tám là cái kho tàng chấp chứa tất cả hạt giống của nghiệp, tất cả nghiệp nhân. Người tổng quản của kho tàng là thức thứ bảy. Lấy của ra, đưa của vào kho là thức thứ 6, còn 5 thức đầu là tạo nghiệp.

Như vậy công năng của thức thứ tám là tàng trữ, nhưng không giống như ông Thần tài giữ của, chỉ nhập mà không xuất kho, ở kho tàng thức thứ tám, tình hình xuất và nhập kho nối tiếp không ngừng, nhập kho là các hành vi ảnh hưởng đến tâm lý, và để lại dấu ấn trong thức thứ tám gọi là nghiệp nhân hay chủng tử. Còn xuất kho là tâm lý dẫn tới hành vi tạo nghiệp hay cảm thụ, gọi là nghiệp quả hay hiện hành. Chủng tử thành hiện hành, đó là xuất. Hiện hành thành chủng tử đó là nhập. Trong một đời, tình hình là như vậy. Trong 2, 3 đời hay là vô số đời liên tiếp, tình hình cũng là như vậy. Tất cả mọi diễn biến nhân quả trong đời hiện tại cũng như trong vô số đời quá khứ và đời vị lai, tình hình cũng đều như vậy, đều không ra ngoài quy luật quan hệ giữa chủng tử và hiện hành. Do đó mà có tinh hình sinh tử tương tục, sinh mạng nối tiếp không ngắt đoạn.

Do quan hệ xuất nhập của chủng tử và hiện hành, tiến hành thường xuyên không ngắt đoạn như vậy, cho nên bản chất của thức thứ tám cũng là thường xuyên biến động không ngừng. Không những thức thứ tám của đời này, so với đời trước và đời sau là biến động không ngừng mà từ một niệm trước đến niệm sau, đã có biến đổi rồi. Vì tình hình của thức thứ tám là niệm niệm sinh diệt, niệm niệm biến đổi, cho nên chúng ta mới luân hồi sinh tử và đồng thời có khả năng thoát ly sinh tử.

Thức thứ tám tồn tại chính là nghiệp nhân và nghiệp quả liên tục tồn tại và biến động. Ngoài sự biến động liên tục của dây chuyền nghiệp nhân nghiệp quả này, không thể tìm đâu ra thức thứ tám ! Cũng như dòng nước chảy, là do nước chảy mà có, không thể tìm đâu ra cái gọi là dòng nước chảy, ở ngoài nước ! Mục đích giải thoát của đạo Phật là cắt đứt dòng chảy sinh tử nhân quả liên tục đó. Khi tác dụng của thức thứ tám không còn nữa, thức thứ tám không còn chấp chứa gì nữa, cũng không còn hiện hành gì nữa, thì thành tựu được “tính không”, thức (phiền não) chuyển thành trí (thanh tịnh), không còn bị sinh tử chi phối nữa, và trở thành tự do trong sinh tử.

Có thể thấy thức thứ tám không giống như linh hồn vĩnh hằng. Nếu tin có linh hồn vĩnh hằng, thì sẽ mất khả năng siêu phàm, nhập Thánh, giải thoát khỏi sinh tử. Phật giáo trên quan niệm thì phủ định linh hồn, trên mục đích thì phủ định thức thứ tám. Chỉ có phủ định thức thứ tám như là sự giả hiện của vô minh phiền não tương tục thì mới có thể được triệt để giải thoát. Nhưng phủ định thức thứ tám không có nghĩa là không có gì hết nữa, mà là còn trí tuệ lặng chiếu, siêu việt hữu và vô, không còn có vô minh phiền não bức nhiễu nữa.


Trích “
PHẬT GIÁO CHÍNH TÍN”
Tác giả: HT Thích Thánh Nghiêm
Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam dịch

Ý Nghĩa “Vòng Hoa Phúng Điếu”

Hỏi:

Kính gửi Ban Biên Tập TVHS,

– Trong tuần qua, nhân bà bạn của mẹ tôi tạ thế, tôi gặp một vấn đề khiến cứ phải suy nghĩ mãi. Vì vậy tôi viết thư này nhờ quý vị tìm cho một giải pháp thỏa đáng. Câu chuyện như sau:

Bác này khi còn ở Việt Nam, nhà bác ngay cạnh nhà tôi. Bác có hai con thì người con trai là bạn anh tôi, con gái bác là bạn tôi, nên hai gia đình thân nhau lắm. Nghe tin bác mất, tôi đưa ngay mẹ tôi tới nhà bác, trước là an ủi các con bác, sau là phụ giúp những việc linh tinh trong tang lễ, coi như việc nhà.

Vì ở ngay tại Orange County, nơi được coi là thủ đô tỵ nạn, nên cũng như tất cả những tang lễ khác, mọi việc đã có nhà quàn lo chu tất, tang gia chỉ có việc đăng cáo phó, sắm sửa hương nến để bầy trên bàn thờ, vân vân. Tưởng chuyện đơn giản, nhưng mà không phải vậy, riêng cái vụ cáo phó, đã có chuyện phiền rồi.

Gia đình bạn tôi khi xưa vốn nghèo, nhưng nhờ học giỏi, nên anh của bạn tôi được một gia đình vọng tộc gả con gái. Đến chỗ ghi tên thông gia, vợ anh đòi phải in tên mẹ chị ấy là bà quả phụ Thiếu Tướng. Bạn tôi góp ý:

– Em nghĩ là nếu bác trai còn thì đề thông gia là gia đình Thiếu Tướng mới có lý do. Vả lại, Thiếu Tướng là đương nhiệm kìa, mình đã di tản sang đây, bác đã thôi đi làm thì phải đề là nguyên Thiếu Tướng. Bác đã mất thì lại phải đề là cố Thiếu Tướng.

Chị dâu bạn tôi sầm mặt lại, không thèm nói gì nữa. Chồng chị vội xuê xoa, kiểu “dĩ hòa vi quý “:

– Ăn nhằm gì, cái cáo phó ý mà. Đương nhiệm thì ba chị ấy nay đã lên đến Đại Tướng rồi ấy chứ. Mà ông có mất rồi thì mới ghi là bà quả phụ, ai chả biết.

Thế là thông qua. Sang đến chữ “Xin miễn phúng điếu”. Mục này thì anh của bạn tôi phát pháo đầu tiên. Anh lên giọng giảng giải:

– Phúng điếu làm phiền người ta tốn tiền vô ích. Ngày xưa thời phong kiến, khi cha mẹ quan lớn chết thì hủ tục phúng điếu là một dịp để quan lớn moi tiền thuộc cấp, và thuộc cấp hối lộ quan lớn, qua hình thức phúng điếu cụ cố. Hoặc là ở nhà quê nghèo khổ, phúng điếu là một cách lân bang hàng xóm giúp đỡ cho nhà đám có tiền mà làm đám ma. Tới chừng chính nhà mình có chuyện thì người ta trả lễ, giúp lại mình ý mà. Bây giờ có ai quan quyền hoặc túng thiếu gì đâu mà lấy phúng điếu của người ta.

Anh nói thì cũng có lý, bạn tôi hỏi thêm:

– Thế có ghi là “Xin miễn phúng điếu, kể cả hoa” không?

Bây giờ có lẽ chị dâu bạn tôi đã nguôi ngoai, nên góp lời:

– Dĩ nhiên, phần lớn phúng điếu là hoa đó. Phải ghi vào chứ. Hoa là vô ích nhất. Được có vài ngày đã héo mất rồi. Mà mỗi vòng hoa cả trăm bạc, phí tiền. Chẳng thà để tiền làm việc thiện lại còn có ích hơn. Cứ để cái hộp trên bàn thờ, dán vào tờ giấy ghi là “Xin miễn phúng điếu, quý vị có lòng xin bỏ tiền vào hộp để làm việc thiện”.

Bạn tôi hỏi:

– Như thế làm sao biết được họ bỏ vào hộp bao nhiêu, để sau này nhà họ có việc mình còn trả lễ cho người ta?

Chị dâu nguýt:

– Thì chính là để dẹp luôn cái hủ tục trả lễ ấy đấy. Lễ qua lễ lại chỉ tốn thì giờ!

Bạn tôi cười nhạt:

– Mà tốn tiền nữa ấy chứ, anh chị nhỉ ? Bây giờ nhận lễ thì sau này anh chị phải trả lễ đấy, không đến phiên em đâu. Con trai báo hiếu cha mẹ mà.

Có lẽ thấy tình hình găng, mẹ tôi xen vào, giọng nghẹn ngào:

– Các con à, mẹ các con với bác cũng như chị em nên bác có vài lời, các con nghe thì nghe, không nghe thì bỏ, coi như bà già nói xàm, đừng có giận. Vào thời bác, đám tang cha mẹ quan trọng lắm, vì đó là cơ hội cuối cùng cho người con có dịp tỏ lòng thương kính cha mẹ, cảm tạ công ơn nuôi dạy, chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, bế ẵm, rồi còn vất vả mấy chục năm trời, dạy dỗ, lo cho con đi học nên người. Thời bác, khi cha mẹ chết, người đến phúng điếu dù ít tuổi, dù vai vế thấp, mình cũng rạp người xuống lạy tạ người ta, cảm ơn người ta đã đến thăm viếng hương hồn cha mẹ mình. Đó là một cách để báo hiếu cha mẹ lần cuối cùng, trước khi xa cách vĩnh viễn đó các con à. Ngày nay cha mẹ chết, người ta đem vòng hoa tới phúng viếng vong linh cha mẹ mình, cho nó bớt tẻ lạnh, bớt tội nghiệp cái thi hài nằm trong nhà xác, mà mình lại tính toán, không muốn cho người chết được ấm cúng với vòng hoa thơm, vòng hoa vĩnh biệt, ướp mùi hương lần cuối cùng, cho cả cuộc đời vất vả vì con, bác thật là buồn quá !

Thấy mẹ tôi rơm rớm nước mắt, tôi vội cáo từ để đưa mẹ về, kẻo mẹ giận lại phát lên cơn bệnh cao máu.

Về nhà rồi, tôi cứ suy nghĩ hoài. Trong đời sống hằng ngày tại nước ngoài, tôi thấy chúng ta cũng đã du nhập một số tục lệ của người Tây Phương, nhiều cái cũng hay. Tôi cũng đã dự mấy đám tang trong sở, người Mỹ họ không lấy tiền phúng điếu, mà đưa cho mình tên một cơ quan từ thiện, yêu cầu mình gửi thẳng ngân phiếu ghi số tiền mà mình muốn phúng điếu đến địa chỉ đó. Số tiền gửi tặng cơ quan từ thiện này, cuối năm lại được trừ thuế, mà tiền thì lại được tiêu vào việc có ích lợi. Tôi thấy làm vậy thực tế hơn là mua vòng hoa, vài ngày đã héo, cũng phí tiền thật. Tuy nhiên, những lời nói đầy tình nghĩa của mẹ vẫn văng vẳng bên tai, khiến cho tôi cứ bâng khuâng hoài, nên viết thư này xin Ban Biên Tập cho biết ý kiến.

Cảm ơn quý vị.
Nguyễn Kim Trang


Đáp:

Thưa quý vị và bà Kim Trang,

Chúng tôi xin cảm ơn bà đã gửi tới một lá thư trình bày rất chi tiết. Chúng tôi cũng xin được chúc mừng bà hãy còn mẹ già minh mẫn, mẹ con được sống chung với nhau. Căn cứ vào lời dạy của cụ “Thời bác, khi cha mẹ chết, người đến phúng điếu dù ít tuổi, dù vai vế thấp, mình cũng rạp người xuống lạy tạ người ta, cảm ơn người ta đã đến thăm viếng hương hồn cha mẹ mình.” là quan điểm của thế hệ người Việt Nam trưởng thành trước năm 1945, chúng tôi đoán rằng năm nay cụ cũng cỡ gần tám chục tuổi rồi, phải không ạ? Một lần nữa, chúng tôi xin chúc mừng bà.

Có những người bạn của chúng tôi đã buồn bã than rằng mỗi khi gặp cha mẹ trong nursing home, các cụ không còn nhận ra được con cái, mà ngơ ngác hỏi: “Ông, bà là ai?”, thấy đau lòng quá. Họ áy náy rằng muốn giữ các cụ trong nhà thì không có khả năng và phương tiện, vì mình cũng phải đi làm kiếm sống, lại yếu đuối, không thể bế ẵm làm vệ sinh cho cha mẹ, như những chuyên viên được. Có gia đình thương cha mẹ già, giữ cha mẹ trong nhà, nhưng không thường xuyên tắm rửa cho các cụ được, khi sở xã hội tới quan sát, thân nhân bị kết tội “bỏ bê” các cụ. Vì lý do đó, họ yêu cầu chuyển các cụ vào nursing home, để được các chuyên viên săn sóc, đúng tiêu chuẩn hơn. Về mặt vật chất, vệ sinh, thì có thể đúng tiêu chuẩn hơn đấy, nhưng thiếu giọng nói tiếng cười của con cháu, các cụ cứ héo hon dần. Hoàn cảnh sống đã khác với khi còn ở quê nhà, nên cũng có những điều mà mình muốn làm cho nhau, nhưng không còn có thể được nữa.

Cho nên, trong vấn đề “hội nhập với nền văn hóa Tây Phương”, cũng có nhiều điều rất tốt. Nhưng cũng có những điều chúng ta nên suy nghĩ thêm. Một trong những điều đó là “vòng hoa phúng điếu”

Thưa quý vị,

Không riêng gì cụ thân sinh bà Kim Trang không đồng ý, mà chính chúng tôi cũng thấy rất lấn cấn trong việc “tang gia từ chối vòng hoa phúng điếu” này.

Có lẽ chúng ta đều đồng ý với nhau là hoa đem lại cho cuộc đời rất nhiều ý nghĩa. Ngay từ lúc một em bé chào đời, em đã được hưởng mùi hoa thơm mà mọi người mang tới mừng đón em. Rồi từ đó, hằng năm, mỗi buổi mừng Sinh Nhật của em, phòng tiệc lại tràn ngập hoa tươi trang trí, nếu em se mình nhức mẩy, bạn bè thân thuộc của cha mẹ tới thăm cũng đem hoa tới chúc em mau lành. Rồi em lớn lên đi học, đi thi, mỗi dịp lễ lạc là lại có hoa bày biện khắp nhà. Khi em có người yêu, hoa cũng là cầu nối, nói giùm những lời em muốn nói mà không ra lời. Trong thời gian yêu đương, hoa đã giúp hòa giải biết bao nhiêu là giận hờn giữa đôi trẻ. Rồi khi đôi trẻ quyết định cùng nhau đi trọn đường đời, trong ngày cưới, món quà đầu của đôi uyên ương tặng nhau, cũng là một bó hoa tươi, biểu tượng của cuộc tình đầy yêu thương, tràn ngập hạnh phúc. Trong suốt cuộc sống chung dài đằng đẵng, hoa đã không biết bao nhiêu lần hàn gắn những hiểu lầm, những vô ý, đôi khi có thể làm rung rinh tổ ấm. Hoa đã làm đẹp cuộc đời đôi bạn cho tới khi đôi trẻ trở thành có tuổi, thì đó lại là lúc hai mái đầu bạc cùng nhau bưng bình hoa lên chùa cúng Phật, dâng lên Đức Mẹ, Đức Chúa, Đền Thánh, vân vân, tỏ lòng thành kính đối với các đấng thiêng liêng.

Hoa không chỉ giúp xây đắp tình cảm trong gia đình, hoa còn làm đẹp đời sống của mọi người trong xã hội. Không thể kể xiết đã có biết bao nhiêu lần trong cuộc đời, bình hoa thay mình nói lên lời cảm ơn, lời xin lỗi, lời âu yếm trong tình thân quyến, tình bạn, tình lân bang hàng xóm…vân vân. Một bình hoa tươi tuy không biết nói, nhưng thật là cảm kích xiết bao qua ý nghĩa thầm kín mà bình hoa mang lại.

Rồi thì những ngày vui tưng bừng như ngày Tết, lễ Phật Đản Sinh, lễ Chúa Giáng Sinh, ngày Valentine, Father’s Day, Mother’s Day, ăn mừng tân gia, đón bạn từ xa tới, mừng đoàn tụ gia đình, vân vân, luôn luôn có sự hiện diện của bình hoa. Bất cứ cuộc hội hè, đình đám, họp mặt lớn nhỏ nào cũng đều phải trang trí bằng hoa. Người đời thượng cổ, hoặc tại những bộ lạc bán khai nơi rừng sâu núi thẳm, cũng dùng hoa để trang điểm. Hoa và người bước cùng nhịp bước trong cuộc đời như bóng với hình.

Riêng đối với đạo Phật thì hoa rất là quan trọng. Hoa là biểu tượng của một nền giáo lý thâm áo, sâu sắc, nhắc nhở mọi người rằng, cũng như tất cả các hiện tượng trong thế giới tương đối, vẻ đẹp của hoa cũng không tồn tại vĩnh viễn, mà sẽ trải qua bốn sự chuyển biến trong một khoảng thời gian, là chu kỳ của Sinh, Trụ, Dị, Diệt.

Khi bông hoa bắt đầu nở, là “Sinh”, vẻ tươi đẹp tồn tại một thời gian ngắn, là “Trụ”, tiếp đến là sự thay đổi, chuyển qua mầu héo úa, là “Dị”, rồi tàn lụi, quắt lại, là “Diệt”. Chỉ cần quan sát bông hoa từ Sinh đến Diệt, người mẫn cảm cũng có thể nắm bắt được giáo lý nhà Phật về “Vô Thường”.

Hoa gắn bó với cuộc đời con người sâu sắc, tình nghĩa như thế, vậy tại sao trong buổi lễ vĩnh biệt cha mẹ, bạn bè, người thân, chúng ta lại không cho bông hoa tới tỏa hương thơm để âu yếm tiễn đưa thi hài người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng? Biết đâu thần thức người quá vãng lại chẳng cảm thấy buồn tủi, bơ vơ, trong khung cảnh nhà quàn lạnh lẽo vì thiếu hoa? Hơn nữa, mùi hoa tươi thơm ngát tỏa lên cũng giúp cho bầu không khí trong nhà quàn bớt vẻ lạnh lùng, ghê rợn. Thế thì tại sao chúng ta lại tước đoạt món lễ vật thanh khiết dành cho người quá cố ấy? Cũng nên nhớ rằng vòng hoa phúng điếu là dành cho người chết, chứ không phải để tặng người sống. Nếu người đến phúng viếng có vì tình cảm với người sống mà đem hoa tới, thì cũng nên cảm nhận vòng hoa, đem trang hoàng tang lễ với nguyện ước thần thức cha mẹ được hoan hỉ, vì thấy con cái được nhiều người quý mến, nên người quá cố cũng được hưởng lây.

Cũng như bà chị dâu kể trên, có một số người viện lẽ rằng đem hoa đến nhà quàn là một sự phí phạm, vì chỉ vài ngày thì đã đem người chết đi chôn rồi. Nếu lý luận theo kiểu đó thì sự xức nước hoa của mọi người cũng là phí phạm, vì chỉ được một ngày là hết mùi thơm, hoặc ăn những bữa tiệc linh đình tốn tiền làm chi cho phí, chỉ một lúc sau thì bao tử cũng tiêu hóa hết.

Người ta kiếm tiền để làm gì? Xin thưa rằng chính là để tiêu vào những việc cần phải tiêu. Nhưng thật ra tại nhiều nơi, nhất là ở Hoa Kỳ, dường như người ta đã tiêu phần lớn số tiền kiếm được vào những việc không hẳn là rất cần thiết, thí dụ, quần áo chưa rách, nhưng đã mua quần áo mới, không phải vì cần mà vì thích vẻ đẹp theo thời trang. Xe cộ, nhà cửa, tuy vẫn đủ dùng, nhưng cũng mua cái mới, đẹp hơn. Nếu so sánh thì vòng hoa tiễn người thân ra đi vĩnh viễn, còn cần thiết hơn tất cả những sự chi tiêu kể trên. Và nếu phải tính toán đến việc dẹp chuyện mua hoa phúng điếu, để dành tiền làm việc thiện, thì có lẽ nên dẹp chuyện mặc theo mốt này nọ, ăn tại nhà hàng nổi tiếng kia để lấy tiền làm việc thiện, trước khi dẹp chuyện phúng điếu bằng hoa

Bà Kim Trang viết trong thư rằng con dâu bà cụ quá cố đề nghị là “Cứ để cái hộp trên bàn thờ, dán vào tờ giấy ghi là “Xin miễn phúng điếu”, quý vị có lòng xin bỏ tiền vào hộp để làm việc thiện”….

Thưa quý vị,

Chúng tôi cũng đã từng thấy những chuyện tương tự xảy ra trong sở làm của người ngoại quốc. Họ yêu cầu các đồng nghiệp, ai muốn phúng điếu thì ký ngân phiếu gửi thẳng tới một cơ sở tôn giáo, hoặc một hội từ thiện nào đó, mà họ nêu ra.

Nhưng mỗi nền văn hóa lại có những nét đẹp truyền thống riêng. Những đám tang người Tây Phương mà chúng tôi tham dự, thường chỉ đưa người qua đời tới huyệt mộ, rồi mọi người ra về, trong khi người Việt Nam khi đi đưa đám tang là đứng chờ cho tới lúc mắt nhìn thấy thi hài người quá cố đã được “vùi sâu chôn chặt”, còn thắp nén hương cuối cùng để ngỏ lời vĩnh biệt trước khi ra về.

Đối với những người thấm nhuần nền văn hóa Đông Phương, thì cách xử sự lại cũng có sự tinh tế riêng. Người Đông Phương rất nhậy cảm trong những chuyện như là “làm việc thiện phải từ tâm khởi”. Đối với họ, làm việc thiện là một chuyện hoàn toàn tự nguyện, do sự “phát tâm”, có nghĩa là khởi tâm từ bi muốn giúp đỡ người khác. Sự “phát tâm” này là chuyện mỗi người đều làm trong suốt chiều dài của cuộc đời, trừ những người keo kiệt, bần tiện. Và cũng không cần phài chờ đến lúc có người chết, họ mới đem tiền đáng lẽ để phúng điếu, chuyển sang làm việc thiện, một kiểu “kéo giỗ làm chạp” như vậy. Đối với người Đông Phương, “gợi ý” như thế là thiếu tế nhị, nó có nghĩa như là phải có người “dậy bảo”, thì họ mới biết làm việc thiện.

Một câu hỏi cũng nên nêu ra, là có phải tất cả những người Tây Phương đều không phúng điếu bằng hoa, mà gửi tiền cho hội từ thiện chăng? Xin thưa rằng không hẳn như vậy. Điển hình là hằng năm, vào ngày lễ Memorial Day, đích thân Tổng Thống đến đặt vòng hoa tại nghĩa trang anh hùng tử sĩ, để cảm niệm lòng ái quốc của họ. Mỗi khi có nhân viên trong chính phủ, trong các cơ quan qua đời, thì những cơ quan liên hệ cũng gửi hoa tới phúng điếu. Ngay chính thông gia và bạn bè của chúng tôi là người ngoại quốc, ở tận các tiểu bang xa xôi, cũng đặt mua hoa gửi tới kính viếng khi cha mẹ chúng tôi tạ thế, chia sẻ nỗi buồn với chúng tôi.

Cũng nên xét lại trường hợp có thể coi như thiếu tế nhị, là tang gia đặt cái hộp ngay trên bàn thờ vong linh, với hàng chữ “Xin miễn phúng điếu, quý vị có lòng xin bỏ tiền vào hộp để làm việc thiện”. Sự kiện này rất dễ gây bối rối, sượng sùng cho người khách đến viếng, vì có thể họ quen dùng thẻ tín dụng, nên không đem theo tiền mặt để bỏ vào hộp, cảm thấy như có những cặp mắt nhìn soi mói, chê cười là keo kiệt.

Chúng ta đón mừng em bé vào đời bằng hoa tươi thơm ngát, cũng nên tiễn biệt người đã trải qua một đời lao nhọc bằng vòng hoa tươi, vòng hoa tình nghĩa làm ấm áp vong linh một người phải đành đoạn từ bỏ cuộc đời mà ra đi … biền biệt….

Trân trọng,
Liên Hương (ĐPK)
Nguồn: Thuvienhoasen online

Tánh Không – John Blofeld

Lời giới thiệu của người dịch:

Theo dòng lịch sử tất cả các tôn giáo lớn đều tiến hóa, biến đổi để trở thành ngày càng đa dạng và cũng có thể là phức tạp hơn, Phật Giáo không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên cũng nên lưu ý là Giáo Huấn hay Đạo Pháp của Đức Phật – còn gọi là Dhamma (tiếng Pa-li) hay Dharma (tiếng Phạn) – từ nguyên thủy không hẳn là một “tôn giáo” mang ý nghĩa như ngày nay. Dù sao thì trong quá trình phát triển Đạo Pháp cũng đã uyển chuyển biến đổi để thích ứng với các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau cũng như với trí “thông minh” và những “xúc cảm” của con người, và từ đó đã làm phát sinh ra nhiều tông phái và học phái mang ít nhiều tính cách “thiêng liêng” và “thần bí” gần với một “tôn giáo” hơn. Trong nhiều trường hợp thì một số hình thức lễ lạc và các nghi thức màu mè phản ảnh từ các “tín ngưỡng” dân gian còn được ghép thêm vào Đạo Pháp.

Nếu các phương pháp tu tập, song song với sự hình thành của các tông phái và học phái, ngày càng trở nên phong phú và đa dạng thì một số khái niệm và giáo lý căn bản trong Đạo Pháp theo đó cũng đã được triển khai sâu rộng hơn và đồng thời cũng đã được suy diễn với ít nhiều khác biệt. Nếu khái niệm về tánh không được Đức Phật nêu lên như một phép luyện tập chính xác, cụ thể và thực dụng, như đã được thuyết giảng trong hai bài kinh Culasunnata-sutta và Mahasunnata-sutta, thì tánh không cũng đã được các tông phái và học phái sau này triển khai sâu rộng hơn bằng nhiều cách diễn đạt phức tạp hơn. Tiêu biểu nhất cho các cách giải thích “mới” về tánh không là bộ kinh đồ sộ Prajnaparamita-sutra, dịch âm là”Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa”, có nghĩa là “Kinh về sự hiểu biết Siêu Nhiên”, và còn được gọi vắn tắt là Tâm Kinh.

Theo truyền thuyết thì chính Đức Phật đã thuyết giảng Kinh này vào lần chuyển Pháp Luân thứ hai trên đỉnh Linh Thứu ở Vương Xá Thành (Rajagrha), và chỉ dành riêng cho các vị tỳ kheo, a-la-hán và bồ-tát nào hội đủ khả năng lĩnh hội. Theo Kinh Hoa Sen (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh / Saddharmapundarika-sutra) thì phần lớn các vị này đã bỏ ra về trước khi buổi thuyết giảng chấm dứt vì họ vô cùng kinh hoảng bởi không hiểu gì cả khi nghe giảng về tánh không, chỉ có một số các vị đệ tử cao thâm của Đức Phật là còn lưu lại cho đến hết buổi giảng.

Theo Phật Giáo Ấn Độ và Tây Tạng thì các đệ tử của Đức Phật thời bấy giờ tuy đã được hấp thụ giáo huấn trong lần chuyển Pháp Luân thứ nhất thế nhưng vẫn chưa hội đủ khả năng để có thể lĩnh hội được giáo huấn trong lần chuyển Pháp Luân thứ hai trên đây. Vì thế giáo huấn này – tức là bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – đã được giao phó cho các vị thánh nhân gìn giữ và sẽ chỉ được đưa ra đúng vào các thời điểm thích nghi sau này. Một phiên bản gồm 100.000 tiết được giao cho Long Xà (Naga) gìn giữ, một phiên bản 25.000 tiết được giao cho con người gìn giữ, một phiên bản 10.000 tiết do các thiên nhân (deva) gìn giữ, một phiên bản 8.000 tiết do một vị Hộ Pháp là Bắc Phương Thiên Vương (Vaisravana) gìn giữ. Cách biện bạch này cũng có thể chỉ là để giải thích về sự xuất hiện muộn của Kinh Bát Nhã.

Theo lịch sử và qua công trình nghiên cứu của các học giả Tây Phương thì một phiên bản của bộ kinh này gồm 8.000 tiết bằng tiếng Phạn đã được liên tục trước tác trong khoảng thời gian từ năm 50 trước Tây Lịch đến năm 150 sau Tây Lịch. Sau đó lại thấy xuất hiện một phiên bản khác mới hơn và cũng dài hơn, và được trước tác trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ II đến thứ IV. Các phiên bản ngắn tóm lược bộ kinh này lại còn xuất hiện muộn hơn nữa, tức trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ IV đến thứ VII.

Trong khoảng thời gian hình thành thật dài ấy của bộ Kinh Bát Nhã người ta nhận thấy có hai sự kiện lớn đã xảy ra. Trước hết vào khoảng thế kỷ thứ II có một vị đại sư là Long Thụ (Nagarjuna) đã trước tác nhiều tập luận nhằm triển khai và bình giải về tánh không nêu lên trong Kinh Bát Nhã, và vị này cũng đã thành lập một tông phái mới là Trung Quán Tông. Tập Trung Quán Luận Tụng(Madhyamakakarika) và tập Thất Thập Không Tín Luận (Sunyatasaptati) của ông trình bày và bình giải về tánh không là hai tập luận căn bản nhất của tông phái này. Sự kiện thứ hai xảy ra vào thế kỷ thứ IV, khi một vị đại sư của Trung Quán Tông là Vô Trước (Asanga) trước tác tập Hiện Quán Trang Nghiêm Luận(Abhisamayalankara) nêu lên con đường của người Bồ-tát dựa theo Kinh Bát Nhã, thế nhưng lại đưa ra một cách giải thích mới hơn về tánh không và đồng thời vị này cũng đã thành lập thêm một tông phái mới nữa là Duy Thức Tông. Sau đó quan điểm về tánh không của hai tông phái này lại được các vị đại sư khác tiếp tục triển khai và giải thích thêm suốt trên dòng phát triển của lịch sử Phật Giáo.

Sở dĩ nhắc đến một vài chi tiết như trên đây là để cho thấy khái niệm về tánh không do Đức Phật nêu lên qua các kinh sách “nguyên thủy” bằng tiếng Pa-li đã được liên tiếp triển khai sau đó và đã trở nên vô cùng phức tạp, đa dạng, đồng thời lại mang ít nhiều tính cách trừu tượng và bao quát hơn. Bài viết ngắn của John Blofeld được chuyển ngữ dưới đây sẽ giúp chúng ta hình dung ra phần nào các cách mô tả tánh không trên đây của Đại Thừa Phật Giáo nói chung.

John Blofeld (1913-1987) là một Phật Tử người Anh và cũng là một học giả Phật Giáo uyên bác, đã sống phần lớn cuộc đời mình tại các nước Á Châu như Trung Quốc, Mông Cổ, Tây Tạng, Thái Lan… Ông đã từng tiếp xúc và học hỏi với rất nhiều vị thầy lỗi lạc tại khắp các quốc gia này, và cũng đã qua đời tại Thái Lan. John Blofeld viết bài dưới đây vào thập niên 1960 và bài này đã được bà Odette Germain dịch sang tiếng Pháp và đưa lên một trang web Phật Giáo khá uy tín là Buddhaline (_http://www.buddhaline.net/La-Vacuite,109).

Trong bài viết đôi khi tác giả cũng nêu thêm một vài ghi chú (được đặt trong hai dấu ngoặc) nhằm giải thích thêm một số sự kiện do chính tác giả đưa ra. Người dịch cũng mạn phép góp thêm một vài lời ghi chú khác với hy vọng có thể giúp người đọc dễ theo dõi bản gốc hơn. Các lời ghi chú này cũng được đặt trong hai dấu ngoặc nhưng bằng chữ nghiêng. Sau phần chuyển ngữ cũng có thêm một vài lời ghi chú mang tính cách tổng quát hơn của người dịch về bài viết này của John Blofeld.

***

Nếu căn cứ vào sự lý luận lô-gic (sự hữu lý) thì sẽ không thể có bất cứ một thứ gì vừa trống-không lại vừa không-trống-không được, tuy nhiên ngược lại thì bắt buộc chúng ta phải chấp nhận có một thứ gì đó có thể mang hai thể dạng khác nhau. Phật Giáo đưa ra khái niệm về tánh không hầu giúp chúng ta hình dung ra, hay đúng hơn là cảm nhận được, thể dạng phi-nhị-nguyên (non-duality) và đấy cũng chính là cốt tủy của tánh không (nhị-nguyên là tính cách đối nghịch giữa chủ thể và đối tượng, tức là giữa người quan sát và đối tượng được quan sát, dù đối tượng ấy là một vật thể hay một sự kiện thuộc ngoại cảnh hay là các tư duy và xúc cảm bên trong tâm thức. Thể dạng phi-nhị-nguyên là một thể dạng cảm nhận của tâm thức khi nó đã loại bỏ được sự đối nghịch giữa chủ thể và đối tượng. Thật ra thì đây cũng là cách định nghĩa đặc thù của Duy Thức Học về tánh không).

Tánh không (tiếng Phạn là sunyata) là cả một sự huyền bí lớn lao, và có thể xem đây là khái niệm nòng cốt của toàn bộ giáo huấn Đại Thừa. Thật thế, tánh không đã từng là đề tài cho không biết bao nhiêu tập luận giải. Các bài Kinh cũng đầy ắp những câu gợi ý về tánh không.

Thế nhưng tương tự như tất cả những đối tượng cảm nhận mang tính cách mầu nhiệm khác, tánh không là một khái niệm mà ta không thể nào mô tả hay định nghĩa được bằng ngôn từ. Thật thế, gần như hầu hết những gì có thể nói ra được đều không mang một giá trị nào cả (đấy chỉ là những quy ước để hiểu ngầm với nhau). Chỉ có một số thật hiếm hoi các nhà thông thái Tây Phương đã tỏ cho thấy là họ có thể hiểu được (trên mặt lý thuyết) ý nghĩa của tánh không là gì. Ngay cả trong các quốc gia Phật Giáo, chỉ trừ một số thật hiếm hoi các nhà thần bí (tức là các vị tu hành cao thâm) là đã từng trực diện được với tánh không trong những lúc họ lắng sâu vào thiền định, ngoài ra thì cũng không có mấy ai đạt được một ý niệm nào về tánh không với ít nhiều chính xác. Đối với số người ít ỏi này nếu họ đã từng đạt được sự hiểu biết phần nào về tánh không thì đấy cũng là nhờ vào khả năng trực giác bẩm sinh của họ, phối hợp thêm với một số kiến thức uyên bác mà họ đã từng học hỏi được từ Kinh Sách (Sutra).

Riêng đối với trường hợp của tôi thì còn lâu tôi mới có thể theo kịp được các vị tu hành thần bí, vì thế khi viết lên những dòng này để nói về họ thì đấy cũng chỉ đơn thuần là những sự phỏng đoán mà thôi. Tuy nhiên cũng có hai lý do đã khiến tôi đánh liều chấp nhận mọi sự rủi ro có thể bị sai lầm. Lý do thứ nhất là nhờ vào một số vốn liếng hiểu biết dù còn thật ít ỏi mà tôi đã góp nhặt được qua các vị thầy Trung Quốc và Tây Tạng đã từng truyền dạy cho tôi, và thật ra thì các sự hiểu biết ấy cũng chỉ giúp tôi vạch ra một vài đường hướng suy tư nhằm mang lại một vài ý nghĩa nào đó dù còn thiếu sót về những gì mà kinh sách muốn trình bày khi đề cập đến tánh không.

Lý do thứ hai khiến tôi phải nói lên là vì tôi nghĩ rằng có một số người Tây Phương đã sai lầm khi họ kết án Phật Giáo là yếm thế, tuy nhiên tôi vẫn tin rằng đấy chẳng qua là vì họ đã nhầm lẫn giữa “tánh không” và sự “trống không” giản dị và đơn thuần (tức là không hàm chứa gì cả) – với một ý nghĩa tiêu cực phản ảnh thể dạng hư vô – và cũng chính vì thế nên họ đã cho rằng niết-bàn đồng nghĩa với sự tắt nghỉ (và đấy là một sự xúc phạm đến những người Phật Giáo) (đây có thể là một phản ứng vô tình vì sai lầm không hiểu được Phật Giáo một cách đúng đắn, nhưng cũng có thể là hậu ý của một số học giả và của một vài vị tu hành thuộc một vài tín ngưỡng lâu đời của Tây Phương nhằm chống lại Phật Giáo bằng cách bôi nhọ Phật Giáo chủ trương hư vô, khi tôn giáo này đặt chân vào thế giới Tây Phương vào thế kỷ XIX. Đấy cũng là lý do thúc đẩy tác giả đã mạnh dạn viết lên bài này để bênh vực cho Phật Giáo. Cũng xin nhắc thêm là tác giả đã viết bài này cách nay nửa thế kỷ, và ngày nay thì tình hình đã khác hơn xưa nhiều).

Dù sao tôi cũng không thể khẳng định được rằng tôi đã hoàn toàn thấu triệt đúng những gì các vị thầy tôi đã giảng dạy cho tôi và những gì tôi đã học hỏi được trong Kinh Sách, và hơn nữa trong những lúc thiền định thì tôi cũng chưa bao giờ tiếp cận được với tánh không. Vì thế thiết nghĩ [người đọc] cũng nên giữ một phong cách thận trọng nào đó về những gì tôi viết ra nơi đây, vì đấy cũng chẳng khác gì những điều mà một người mù suy đoán ra nhờ vào một người cận thị mô tả cho mình.

Bài Tâm Kinh ngắn (tức là bản kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa tóm lược chỉ gồm vài mươi câu) mà hàng triệu người Phật Giáo Đại Thừa trì tụng hằng ngày bằng tiếng Hán, tiếng Tây Tạng hay tiếng Phạn (có nghĩa là các Phật Tử khắp nơi ở Á Châu tụng niệm hằng ngày) hàm chứa một câu thật chủ yếu, đấy là câu nêu lên thật rõ ràng rằng:

“Hình tướng là tánh không và tánh không là hình tướng; hình tướng không khác với tánh không và tánh không cũng không khác với hình tướng”.

Mặc dù ý nghĩa thâm sâu và đích thật của câu này có thể không được diễn tả một cách thật minh bạch đi nữa, thế nhưng nó cũng đủ để nêu lên cho ta thấy là tánh không là một thứ gì đó hoàn toàn không phải là một thể dạng hư vô đơn thuần. Các lời bình giải thường thấy [từ trước đến nay] về ý nghĩa của câu này không hề có một sự phân tách chính đáng nào giữa sự tuyệt đối và tương đối, giữa hiện thực và những biểu hiện bên ngoài của các hiện tượng, giữa cội nguồn và vũ trụ (chẳng hạn như “người sáng tạo” và những gì đã “được sáng tạo”).

Nếu cho rằng không có một sự hiện hữu nào có thể độc lập và mang tính cách tự tại được (tức phải nhờ vào hiện tượng tương liên và tương tạo mà có) thì sẽ chẳng có bất cứ gì là thật cả, đấy chẳng qua là những hiện tượng mang tính cách tạm thời (bởi vì mỗi hiện tượng cũng chỉ là một sự kết hợp của hàng triệu hiện tượng khác và các hiện tượng này thì cũng phù du hơn cả chính nó): thế nhưng tất cả lại hiện ra rất thật. Tóm lại nếu hiểu đấy chỉ là những biểu hiện của sự hiện hữu [nói chung] và không hề mang một thuộc tính [cá biệt] nào thì chúng cũng sẽ chỉ là những thứ gì đó không thể nào nắm bắt được (tức có nghĩa là không thể định nghĩa hay quy định chúng một cách rõ rệt và cố định được, bởi vì chúng luôn chuyển động, hiện ra rồi mất đi, sự chuyển động đó – còn gọi là vô thường – chỉ là biểu hiện bên ngoài và tạm thời của hiện thực).

Chúng ta hãy thử nêu lên một thí dụ thật thô thiển, chẳng hạn như các gợn sóng trên mặt biển: chúng không hề mang tính cách trường tồn, cũng không hề hàm chứa một sự hiện hữu nào, mà luôn biến đổi trong từng khoảnh khắc một, chúng hoà lẫn vào nhau và biến mất ngay sau đó – thế nhưng có ai dám bảo rằng không có một thành phần nào của các gợn sóng sẽ còn tiếp tục hiện hữu, khi mà biển cả vẫn còn đấy? Sự so sánh trên đây không phải là không có kẽ hở, bởi vì một gợn sóng dù xảy ra vào một thời điểm nào thì nó vẫn chỉ là biển cả, dù không phải là toàn bộ biển cả thế nhưng cũng là thành phần của biển cả. Trong khi đó nếu nói đến tánh không thì sẽ chẳng có gì liên hệ với bất cứ một thứ gì nằm trong sự chi phối của các quy luật liên quan đến không gian (một gợn sóng lệ thuộc vào biển, thế nhưng tánh không thì không liên quan gì đến không gian, dù đấy là không gian “trống không”) vì thế dù chỉ là một hạt “vi thể” thế nhưng nó vẫn có thể biểu trưng cho sự toàn diện (“một chút” tánh không hay “toàn thể” tánh không thì cũng chỉ là “tánh không”, “một chút” hiện thực cũng là toàn bộ “hiện thực”, một “hạt cát” cũng là toàn thể “vũ trụ”, các hiện tượng cũng chỉ là những biểu hiện bên ngoài và tạm thời của một sự “hiện hữu” chung).

Chính vì thế mà những người Trung Quốc (nên hiểu là các vị đại thiền sư Trung Quốc trong quá khứ) thường chọn cách so sánh hình ảnh mặt trời phản chiếu trong nước chứa trong các chậu, bình, hay ao hồ khác nhau. Huai-Hai (Huệ Hải – còn gọi là Đại Châu Huệ Hải – một vị đại thiền sư Trung Quốc, 720-814) có nói rằng: mỗi chậu, bình hay ao hồ đều chứa đựng một mặt trời (mặt trời phản ảnh trong nước), mỗi [hình ảnh] mặt trời ấy đều nguyên vẹn và giống [như đúc] với mặt trời trên không trung…, thế nhưng mặt trời trên không trung lại không hề bị sứt mẻ (giảm bớt đi) một chút nào”.

Vị thiền sư nói lên câu trên đây cũng đã từng đề cập đến sự Giác Ngộ và xem đấy như là “sự thực hiện được thực thể của hình tướng và cả tánh không” (quán nhận được bản chất của hình tướng và cả của tánh không chính là sự Giác Ngộ). Thế nhưng trong một đoạn khác thì vị này cũng lại cho biết là có hai thứ tánh không khác nhau: một thứ liên hệ đến những gì “không-tánh-không” và một thứ khác là “tánh-không-tối-hậu” vượt lên trên tính cách nhị nguyên giữa tánh-không và không-tánh-không (non-vacuité / non-emptiness).

Thật hết sức hiển nhiên: tánh không mà một vị thần bí (một người tu tập cao thâm) nhận biết truớc hết qua kinh nghiệm cảm nhận của mình là thứ tánh không thứ nhất trong hai thứ tánh không trên đây (tức là thể dạng không-tánh-không), bởi vì vị này đã đạt được tánh không đó bằng một thể dạng tri thức “thông thường” tức là thể dạng thường xuyên chi phối bởi “không-tánh-không” (tức là thể dạng tri thức nhận biết được hình tướng hay những biểu hiện bên ngoài của mọi hiện tượng, nói cách khác là một thể dạng tri thức luôn hiện ra chủ thể và đối tượng), và sau khi đã thực hiện được những kinh nghiệm cảm nhận thần bí (giúp mình cảm nhận được “tánh-không-tối-hậu”) thì vị ấy mong đợi sẽ có thể tìm trở lại được thể dạng trước đó (tức là thể dạng không-tánh-không do tri thức “thông thường” cảm nhận được trong giai đoạn trước khi cảm nhận được tánh không đích thật) Vậy làm thế nào vị ấy có thể tránh khỏi không so sánh thể dạng tánh-không (tối hậu đạt được bằng thiền định) với thể dạng không-tánh-không xảy ra trước đó vẫn còn tiếp tục theo đuổi vị ấy? Dù sao nếu kinh nghiệm cảm nhận của vị ấy đủ sâu xa thì vị ấy cũng có thể vượt lên trên cả sự thiền định của mình để đạt được một thể dạng thật cao siêu mang lại một niềm tin tuyệt đối rằng tánh-không và không-tánh-không không phải là một sự [hiển hiện] luân phiên (chuyển tiếp từ thể dạng này sang thể dạng khác), bởi vì cả hai thể dạng ấy chẳng những cùng kết chặt với nhau mà còn hoàn toàn giống hệt như nhau (cách biện luận của John Blofeld thật tinh tế, giúp chúng ta liên tưởng đến tính cách “Đa Dạng” và “Nhất Nguyên” hay “Hình Tướng” và “Tánh Không” của hiện thực, tất cả những thứ này cũng chỉ biểu trưng cho hiện thực đơn thuần và bất khả phân, không phải là một sự hoán chuyển từ thể dạng này sang thể dạng khác).

[Thế nhưng] chính ở điểm ấy tính cách logique đã phản bội lại chúng ta. Nếu căn cứ trên phép lý luận logique thì không thể nào lại có thể có sự trống-không và không-trống-không trong cùng một lúc được, nếu không thì trên một khía cạnh nào đó phải chấp nhận có một thứ gì đó có hai thể dạng khác nhau. Người Tây Phương thường được rèn luyện theo cách lý luận logique, vì thế nên họ rất dễ bị rơi vào tình trạng hiểu biết mang tính cách nhị-nguyên nhiều hay ít. Dù cho họ có sẵn sàng chấp nhận trên phương diện trừu tượng là sự trống-không và không-trống-không thật sự chỉ là một thứ như nhau đi nữa, thế nhưng nền giáo dục mang nặng tính cách logique mà họ được thừa hưởng đã tạo ra nhiều gò bó trong sự suy nghĩ khiến cho họ khó tránh khỏi phải hình dung ra hai thể dạng khác nhau của hiện thực – đấy là tánh-không và không-tánh-không – và dù nếu chúng có tách rời nhau thì đấy cũng chỉ có tính cách tạm thời và chỉ ở vào một mức độ nào đó mà thôi.

Một người Á Đông bình thường cũng vẫn có thể gặp phải các khó khăn này, bởi vì kinh nghiệm cảm nhận của người này trong thể dạng “thần bí” (tức đạt được tánh không bằng thiền định) khác với kinh nghiệm cảm nhận của mình trong thể dạng “thông thường” (tức cảm nhận được thể dạng không-trống không): thế nhưng người này nhờ vào khả năng suy luận ít bị nhào nặn bởi nguyên tắc logique của người Tây Phương hơn nên cũng sẽ có thể chấp nhận dễ dàng hơn rằng sự trống-không và không-trống-không, trên phương diện tri thức, cũng chỉ là một thứ như nhau và cùng hiện hữu chung với nhau: nhờ đó đến khi luyện tập để thực hiện sự cảm nhận thần bí về tính cách nhất nguyên của hai thể dạng (trống-không và không-trống không) thì người này cũng sẽ gặp ít khó khăn hơn.

Người ta có thể bảo rằng Huệ Hải, vị thiền sư mà tôi đã nói đến trên đây, cũng đã rơi vào sự sai lầm nhị nguyên khi vị này cho rằng có hai thứ trống-không: thế nhưng tôi vẫn tin rằng trường hợp của Huệ Hải không giống như như trường hợp của các người khác, bởi vì không thể nào có thể nghĩ rằng vị ấy lại có thể phạm vào một lỗi lầm quá ư thô thiển đến thế (tuy nhiên biết đâu ông ta cũng có thể là một nạn nhân của sự sai lầm đó?). Dù sao thì cũng thật hết sức rõ ràng khi Huệ Hải nêu lên sự phân biệt ấy (tức là có hai thứ tánh không) thì đấy cũng chỉ là một hình thức chủ quan nào đó: bởi vì tánh-không chỉ tương kết với không-tánh-không trong tâm thức của những người hội đủ khả năng hoán chuyển được cả hai thể dạng là: thể dạng tri thức nhận thức được tất cả là không-tánh-không và thể dạng tri thức nhận thức được tất cả là tánh-không, thế nhưng cùng một thứ tánh-không ấy dưới thể dạng đích thật của nó (tức là tánh không đúng nghĩa hay đích thật) thì nó luôn độc lập với phương cách mà nó được cảm nhận (như là một đối tượng) cũng như đối với người đã cảm nhận được nó (như là một chủ thể), và lúc nào nó cũng vượt lên trên mọi sự phân biệt giữa “trống-không” và “không-trống-không” (câu này có nghĩa là tánh-không và không-tánh-không do Huệ Hải nêu lên chỉ mang tính cách chủ quan trong tâm thức ông, tánh không đích thật vượt lên trên cả hai thể dạng này).

Dù chỉ hiểu được giáo lý về tánh không một cách thật mơ hồ đi nữa – chỉ cần không hiểu sai là được! – thì cũng đủ để giúp chúng ta không đánh giá Phật Giáo như một tín ngưỡng yếm thế (có nghĩa là Phật Giáo không hề chủ trương hư vô). Làm thế nào mà cái chết và sự tắt nghỉ lại có thể khiến gây ra một sự đau buồn khi mà tuyệt nhiên chẳng có bất cứ một thứ gì [hiện hữu thật sự] để mà chết hay bị hủy diệt?

Cho đến khi nào chúng ta vẫn khăng khăng tin rằng chúng ta thực sự là những thực thể mang tính cách cá biệt, đang gánh chịu sự sinh, sự tăng trưởng, sự suy thoái và cái chết, thì khi đó chúng ta cũng sẽ có đầy đủ lý do để mà rơi nước mắt. Thế nhưng khi nào mọi sự bất thần hiện ra một cách minh bạch (nhờ vào các phương pháp thiền định đúng đắn) rằng “tôi” không phải là “tôi”, và tri thức của mỗi cá thể thật ra không hề mang một tính cách cá thể nào cả, và đồng thời thì nó cũng tự nhận diện được mình là một thể dạng tri thức rạng ngời, hiện hữu một cách độc lập, không đối tượng (không mang một chủ đích nào), và chính nó cũng chỉ là sự hiện hữu chung của toàn thể vũ trụ – không sinh, không tử, không hề được sáng tạo (incréé / uncreated / không hề được tạo dựng, tức hàm ý là không hề được sáng tạo bởi một vị tối cao nào cả) cũng không hề bị hủy diệt – thì khi đó cá thể ấy cũng sẽ có thể cười vào mặt ý nghĩ về cái chết, dù đấy là cái chết của mình hay của bất cứ một người nào khác.

Dù sao thì cũng phải chấp nhận rằng cũng có nhiều người bám víu vào sự sống này, tất nhiên là một sự sống mang đầy những thứ bất toại nguyện, và đồng thời tin vào thực thể của “cái tôi” của chính họ, khăng khăng đến độ có thể nói rằng ý nghĩ sẽ bị biến mất vào cõi vô tận (chết) không đáng cho họ quan tâm bằng chính niềm tin vào sự hiện hữu mang tính cách cá thể này (tức cái tôi) của họ (đang có), và họ chỉ ước mong sao cho sự hiện hữu này (cái tôi của họ đang có) phải trường tồn dù là dưới hình thức này hay hình thức khác, chỉ cần một điều kiện duy nhất là phải vĩnh viễn mà thôi (có nghĩa là họ chỉ muốn được sống mãi không bao giờ chết, dù dưới thể dạng linh hồn hay vong linh, dù trong thế giới này hay một cõi nào khác cũng được. Chỉ khi nào phải đối đầu với những trường hợp tuyệt vọng và không còn chủ động được tâm thức của mình nữa thì khi đó mới nảy ra ý định “muốn” tự tử cho rồi. Đối với những người luôn bám víu như thế sẽ rất khó cho họ có thể hiểu được tánh không là gì).

Hãy cứ cho rằng ngay trong lúc này [nếu] chúng ta đang hiện hữu với tư cách là những cá thể [cá biệt], thì tất nhiên chúng ta sẽ phải lo sợ vì đặc tính cá thể ấy cũng sẽ bị mất đi vào một lúc nào đó (chết) và vì thế cũng sẽ khó cho chúng ta tránh khỏi lo âu: thế nhưng đối với một nhà thần bí (tức một người tu tập) cao thâm thì người này sẽ hiểu rằng qua kinh nghiệm cảm nhận sống thực của mình (tức là khi đã đạt được tánh không) thì không hề có một nhân dạng mang tính cách cá thể (individuality) nào hiện hữu cả, do đó ý nghĩ bị mất đi đặc tính cá thể (hay nhân dạng, hay cái tôi) của mình cũng sẽ hoàn toàn không hàm chứa một ý nghĩa nào cả. Tất cả những gì mà chúng ta có thể bị mất đi – trong kiếp sống này hay trong kiếp sống tương lai – ấy chỉ là các thứ ảo giác vô nghĩa phát sinh từ sự mong muốn được hiện hữu dưới những hình thức cá thể (“cái tôi” hay cái “của tôi”). Nếu hiểu rằng các thứ ảo giác ấy chính là nguyên nhân tạo ra đủ mọi thứ bất toại nguyện cũng như hầu hết các nỗi khổ đau trong cuộc sống, thì còn có niềm hạnh phúc nào có thể to lớn hơn khi đánh mất nó!

Nếu tôi phải đưa bài viết ngắn này cho một trong số các vị thầy Tây Tạng hay Trung Quốc của tôi xem thì biết đâu vị này cũng sẽ có thể bảo tôi rằng:

“Hãy xé bỏ nó đi! Đấy chỉ là những thứ biện luận triết học làm mất thì giờ vô ích cho mi và cho cả người khác, toàn là những thứ luận bàn vô ích về những gì mà Kinh Sách gọi là tánh không! Hàng chục pho sách bàn về chủ đề ấy cũng không giúp cho mi hay cho người khác đạt được một sự hiểu biết đúng đắn hơn. Cái tánh không ấy hiện đang nằm trong tâm thức của chính mi đấy và cả trong cùng khắp mọi nơi. Điều cần làm là phải cảm nhận được nó. Hãy chấm dứt ngay cái trò viết lách và tìm tòi trong sách vở, và phải trực tiếp tìm cách thực hiện sự cảm nhận ấy ngay đi”.

Tôi nghĩ rằng khi nêu lên lời khuyên này tất sẽ khiến cho nhiều người phải mỉm cười: bởi vì ngay cả những vị thầy uyên bác nhất cũng đều phải đi đến chỗ cần phải viết ra hay nói ra – dù chỉ vừa đủ để giúp cho các đệ tử của mình ý thức được là có một kho tàng cần phải khám phá nếu không thì tất sẽ khó để giúp cho họ tránh khỏi tình trạng đánh mất hết năm tháng của đời mình mà không hề nghĩ đến việc phải tìm kiếm cho bằng được cái kho tàng ấy.

Tuy nhiên phải nói rằng chưa bao giờ tôi được nghe thấy bất cứ một vị thầy nào của tôi tự nhận rằng mình có thể định nghĩa được tánh không là gì (tất nhiên là như thế, bởi vì đấy chỉ là một kinh nghiệm cảm nhận trong tận cùng của tâm thức họ, cái cảm nhận ấy không thể mô tả bằng lời được). Họ chỉ quan tâm duy nhất đến trọng trách phải làm thế nào để có thể đưa ra các phép luyện tập giúp cho bất cứ một người đệ tử nào nếu cần mẫn cũng đều có thể tự mình khám phá ra tánh không bằng cách vượt thoát khỏi những ranh giới chật hẹp của sự lý luận logique, luôn bị vướng mắc trong mọi thứ khái niệm và nguyên tắc nhị nguyên, hầu giúp cho họ hòa nhập vào bầu không gian vô biên của sự cảm nhận đơn thuần.

Các phương pháp luyện tập của người Tây Tạng nhằm giúp mang lại sự cảm nhận trên đây thật hết sức đa dạng. Sự đa dạng ấy là một cách thích nghi với các loại chướng ngại (ngăn chận việc luyện tập) cũng rất đa dạng. Các chướng ngại này sở dĩ rất đa dạng là vì trí thông minh, các khả năng bẩm sinh cũng như kinh nghiệm của các người tu tập rất khác biệt nhau. Tuy nhiên hầu hết các phương pháp trên đây đều có một căn bản khá giống nhau, đấy là cách chuẩn bị cho tâm thức vươn lên nhờ vào phép thiền định dựa vào cách thường xuyên trì tụng câu kinh man-tra (chữ man- có gốc từ chữ Phạn manas, có nghĩ là “tâm thức”; chữ -tra có gốc từ chữ Phạn traya, có nghĩa lả “bảo vệ” hay “che chở”. Các câu man-tra là các câu trì tụng mang tính cách thiêng liêng của Kim Cương Thừa – còn gọi là Tan-tra Thừa – nhằm che chở tâm thức của người tu tập) mang ý nghĩa như sau: “tánh không là bản chất của tất cả mọi thứ dharma (tất cả mọi đối tượng, khái niệm, v.v…) (nói một cách tổng quát hơn là tất cả mọi hiện tượng) và chính tôi thì tôi cũng chỉ là bản chất ấy của tánh không”.

Cách lập đi lập lại thường xuyên câu man-tra trên đây sẽ mang lại một sức mạnh thật lớn – đủ để có thể giúp loại bỏ được các chướng ngại hiện ra trong cuộc sống của những ai chỉ biết nhìn vào thế giới hiện tượng qua những biểu hiện bên ngoài (tức là những thể dạng biến động và vô thường) của nó. Hầu hết các phương pháp trên đây còn đưa ra một phép luyện tập thiền định khác nữa, đấy là cách nhìn vào các biểu đồ để quán tưởng. Một loạt nhiều loại biểu đồ được chọn sẵn để người tu tập quán nhìn vào đấy, càng quán nhìn thường xuyên và càng quán thấy các biểu đồ ấy minh bạch hơn thì hiệu quả mang lại sẽ càng nhiều hơn. Các biểu đồ này sẽ tuần tự hòa nhập vào nhau và sau đó sẽ hòa nhập với chính người hành thiền, và người hành thiền thì cũng hướng vào các biểu đồ ấy để hòa nhập với chúng. Quá trình hòa nhập và thu hẹp tuần tự ấy (các biểu đồ hòa nhập vào nhau và người hành thiền cũng hòa nhập vào đấy và tất cả thu nhỏ dần) tiếp diễn cho đến khi nào chỉ còn lại một điểm bé tí xíu và sau cùng thì chính điểm này cũng sẽ tan biến vào tánh không. Tất nhiên là quá trình trên đây không phải dễ thực hiện nếu người tu tập chưa hội đủ khả năng để chủ động thật cao độ tâm thức mình. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu khi mới luyện tập thì cũng chỉ cần đạt được một chút kết quả thật nhỏ cũng đủ để giúp người tu tập suy đoán ra những gì sẽ còn phải thực hiện thêm sau này.

Tất nhiên tất cả mọi sự nhận biết được tánh không dù bằng cách trực tiếp (quán nhận bằng thiền định) hay gián tiếp (bằng cách học hỏi) cũng đều mang lại lợi ích. Nếu một người tu tập dựa vào kinh nghiệm của chính mình (thiền định) quán nhận được tất cả mọi sự vật (tất nhiên trong đó gồm có cả cái tôi của chính mình) đều vô thường và chỉ có một giá trị tương đối thì người ấy cũng sẽ loại bỏ được mọi sự bám víu vào các thứ hình tướng (bên ngoài) và các ý nghĩ (bên trong tâm thức) vì chúng chỉ là trống không. Đấy cũng là điều kiện sơ đẳng và tiên quyết nhất góp phần mang lại mọi sự thăng tiến tâm linh sau này. Người ấy sẽ cảm thấy mình được giải thoát khỏi những gì chi phối và trói buộc mình. Cách nhìn của người ấy về tất cả mọi sự vật trong cuộc sống cũng sẽ theo đó mà hoàn toàn thay đổi hết. Mọi sự tham lam, thèm muốn, ích kỷ, lo buồn, sợ hãi sẽ không còn có thể kiềm tỏa và trói buộc người ấy được nữa: bởi vì khi đã vượt thoát khỏi mọi chướng ngại thì người ấy sẽ thanh thản bước vào con đường hướng đến Giác Ngộ.

Đề cập đến chủ đề tiếp cận với tánh không cũng chính là một cách nêu lên các kinh nghiệm cảm nhận thuộc vào một lãnh vực vô cùng thiêng liêng, chẳng qua là vì tánh không có thể ví như chất liệu (matrice / matrix / chất liệu hay khuôn đúc) kiến tạo ra sự hiện hữu, là khuôn mẫu của hiện thực tối hậu, nơi đó quá khứ và tương lai, những gì thật gần hay thật xa, sự Nhất Thể hay Đa Dạng…, tất cả đều bị loại bỏ, không còn bất cứ gì tồn lưu để có thể ngăn chận những tia sáng rạng ngời của Sự Thật.

Ở cấp bậc hiện tại chúng ta vẫn còn trông thấy tính cách Nhất Nguyên xuyên qua khía cạnh Đa Dạng (nhìn thấy các hiện tượng Đa Dạng và hình dung ra hay suy ra tính cách Nhất Nguyên của chúng), thế nhưng vào một cấp bậc cao hơn (khi tánh không đã giảm xuống) (tức là khi đã thăng tiến trong việc luyện tập thiền định thì sẽ nhìn thấy sự biến động và ảo giác của mọi hiện tượng giảm bớt và lắng xuống) thì chúng ta sẽ thấy được sự Đa Dạng dưới khía cạnh Nhất Nguyên(trông thấy tất cả mọi hiện tượng đều nhất thể). Khi nào mục đích đã hoàn toàn đạt được thì cả hai khía cạnh ấy (tức là Đa Dạng và Nhất Nguyên) sẽ hiện ra dưới thể dạng vô tận của chúng, một thể dạng vượt lên trên mọi sự phân biệt (không phải là Đa Dạng mà cũng chẳng phải là Nhất Nguyên) – một thể dạng thật kỳ diệu và thánh thiện vượt khỏi mọi ngôn từ và tư duy (tức có nghĩa là đạt được Tánh Không Tối Thượng hay sự Giác Ngộ).

Vài lời ghi chú của người dịch
Điểm đáng chú ý trước nhất trong bài viết của John Blofeld trên đây là ông đã xác nhận rằng chính ông cũng “chưa bao giờ tiếp cận được với tánh không” Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì khi nào chúng ta vẫn còn hướng vào tánh không như một đối tượng để tìm hiểu nó, để tiếp cận với nó thì khi đó chúng ta cũng sẽ chẳng bao giờ thành công được, bởi vì chúng ta vẫn còn vướng mắc trong thể dạng nhị nguyên. Dù sao thì sự thú nhận trên đây của tác giả cũng đã chứng tỏ ông là một người thành thật và đồng thời cũng cho thấy một sự mâu thuẫn nào đó của ông đối với những gì ông trình bày về tánh không trong phần cuối của bài viết.

Ngoài ra ông cũng nhận thấy rằng trong số các vị tu hành thâm sâu và cả các vị thầy uyên bác của ông, không có một vị nào tự nhận mình “có thể giải thích được tánh không là gì, mà họ chỉ cố gắng tìm mọi cách để đưa ra các phép luyện tập giúp các môn đệ của họ tự thực hiện cái tánh không ấy cho chính mình”. Thật thế, đối với những người đã từng thực hiện được tánh không thì họ cũng không thể nào tìm được các ngôn từ thích nghi để mô tả nó. Tánh không thật ra chỉ là một kinh nghiệm cảm nhận thật bao la và sâu kín, tỏa rộng trong tâm thức vô biên của mỗi cá thể. Do đó không thể nào có một ngôn từ quy ước, công thức và cụ thể nào có thể giúp để hình dung ra được nó.

Điểm đáng chú ý thứ hai là tác giả đã nêu lên sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Tây Phương và Á Đông và cho rằng một người Tây Phương vì chịu ảnh hưởng nặng nề của sự suy luận logique đặc thù của Phương Tây nên đã gặp nhiều khó khăn hơn khi phải vượt qua tính cách nhị nguyên – tức là phải loại bỏ được chủ thể và đối tượng – để có thể quán nhận được tính cách nhất nguyên của hiện thực. Thật ra thì giáo dục nói chung không hẳn – hay ít ra cũng không phải là nguyên nhân duy nhất – mang lại những khó khăn ấy, bởi vì khả năng quán thấy và lĩnh hội của mỗi cá thể còn tùy thuộc vào khả năng suy nghĩ trừu tượng và sự suy luận liên kết với thật nhiều dữ kiện trong cùng một lúc. Nếu nhìn xa hơn nữa thì cũng sẽ thấy rằng các khả năng này còn tùy thuộc vào nghiệp sẵn có của mỗi cá thể.

Điểm đáng chú ý thứ ba là tác giả đã nhấn mạnh đến tính cách “siêu nhiên” và “thần bí” của tánh không, và đồng thời ông cũng đã nhìn vào các vị tu hành thâm sâu và các vị thầy uyên bác của ông như là những vị “thần bí”. Thật thế, từ nguyên thủy nếu Đạo Pháp của Đức Phật càng mang tính cách thực dụng, minh bạch và chính xác bao nhiêu thì sau này trên dòng tiến hóa lịch sử và song song với sự hình thành của Phật Giáo Đại Thừa, lại càng biến đổi bấy nhiêu để rồi mang thêm một vài nét “thiêng liêng” và “trừu tượng” nào đó. Khái niệm về tánh không tất nhiên cũng không tránh khỏi trường hợp này, tức có nghĩa là từ nguyên thủy tánh không là một đối tượng cho việc thiền định và là một phương tiện giúp đạt được sự giải thoát, thì nay lại chuyển thành bản chất của mọi hiện tượng trong vũ trụ và trong tâm thức của mỗi con người. Hơn nữa, Đạo Pháp của Đức Phật – từ nguyên thủy được gọi là Dharma – cũng đã biến đổi dần để trở thành một tôn giáo.

Trong Bài Kinh ngắn về Tánh Không (Culasunnata-sutta) giảng về tánh không, Đức Phật đã nêu lên bảy giai đoạn thiền định, từ các cấp bậc thô thiển thăng tiến dần lên thể dạng tánh không tối thượng. Bảy giai đoạn này như sau:

– cảm nhận gian nhà, ngôi làng và khu rừng, tất cả đều vắng lặng và trống không
– cảm nhận mặt đất bằng phẳng, không núi đồi, sông ngòi, cây cỏ
– cảm nhận bầu không gian vô tận và trống không
– cảm nhận sự tỏa rộng của tri thức vô biên trong tâm thức của người hành thiền
– cảm nhận sự vắng lặng và trống không của hư vô
– cảm nhận sự kiện không cảm nhận của chính mình
– cảm-nhận-không-cảm-nhận hay thực hiện được “tánh không tối thượng không có gì vượt hơn được”

Trong giai đoạn tột cùng tức là cấp bập thứ bảy, Đức Phật chỉ nói đấy là “tánh không tối thượng” nhưng không mô tả nó là gì. Sau một đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Đức Phật đạt được Giác Ngộ, thế nhưng Ngài cũng không mô tả sự Giác Ngộ ấy là gì mà chỉ phân vân tự hỏi con người bình dị của thời bấy giờ có đủ sức để thấu triệt được sự khám phá ấy của Ngài hay không?

Thật vậy cái “tánh không tối thượng” ấy không thể nào có thể mô tả hay giải thích một cách trung thực bằng các ngôn từ quy ước được. Nếu như Đức Phật cứ nói ra thì biết đâu chẳng những không ai hiểu được mà còn có thể mang lại cho người nghe đủ mọi thứ nghi ngờ đưa đến sự tranh cãi. Chẳng phải là Kinh Hoa Sen đã từng thuật lại là một số đông đảo các đệ tử và thánh chúng đã bỏ ra về khi họ không hiểu được những lời giảng của Đức Phật trên đỉnh Linh Thứu hay sao? Trí thông minh và các ảnh hưởng từ giáo dục, văn hóa, cũng như các tác động của xung năng và tác ý chi phối bởi nghiệp, luôn vận hành trong tâm thức của mỗi cá thể sẽ không cho phép họ hiểu được – hay ít ra là không hiểu giống nhau – “tánh không tối thượng” mà Đức Phật đã khám phá ra. Khi thắc mắc phát sinh thì hoang mang tất sẽ chi phối, và sự tranh biện cũng sẽ khó tránh khỏi, và biết đâu do đó Đạo Pháp cũng có thể đã mai một từ lâu chăng?

Sự yên lặng của Đức Phật và tính cách thiêng liêng trong Giáo Huấn của Ngài chính là chiều sâu và sức sống của Đạo Pháp giúp Đạo Pháp luôn trường tồn và sinh động. Nói thế không có nghĩa là phủ nhận mọi cố gắng của Đại Thừa, bởi vì các nỗ lực nhằm tìm hiểu, giải thích cũng như các phương pháp “cụ thể hóa” tánh không của các tông phái và học phái Đại Thừa qua hơn hai ngàn năm cũng đã góp phần không nhỏ giúp cho Đạo Pháp trở nên phong phú hơn.

Tuy nhiên một đôi lần Đức Phật cũng đã từng nói với các đệ tử thật thân cận của Ngài là Xá-lợi-phất và A-nan-đà rằng Ngài luôn thường trú và trải qua cuộc đời mình trong cõi tánh không. Điều này cho thấy rằng tánh không không hề hủy hoại sự hiện hữu, trí sáng suốt và nỗ lực phi thường của một con ngưòi, và nhất là không hề biến một cá thể trở thành hư vô. Tánh không chỉ xóa bỏ những gì ô nhiễm của những thứ hư cấu phát sinh từ các xung năng của một cá thể.

“Tánh không tinh khiết và tối thượng” ấy không hề thụ động mà đúng hơn rất tích cực. Nó xóa bỏ tất cả mọi hiện tượng trong thế giới, mọi xung năng thúc đẩy thế giới phải chuyển động. Nó xóa bỏ mọi hình tướng trên thân xác, dù đấy là những hình tướng xinh đẹp hay thô kệch, duyên dáng hay vụng về, béo phì hay gầy gò. Nó xóa bỏ các vết thương, bệnh tật, mùi hôi, lông tóc, đờm dãi, phèo phổi, màng nhầy, mủ máu, nước mắt và cả những nụ cười bật lên hăng hắc, ngớ ngẩn, hồn nhiên hay vui tươi. Nó xóa bỏ cả những hành động hung hăng hay thân ái, những ngôn từ ti tiện, lừa phỉnh, độc ác, bịa đặt hay dịu dàng, nhân hậu, hòa nhã và tràn ngập yêu thương. Nó xóa bỏ ngũ giác và mọi cảm nhận như thích thú, ghét bỏ và mọi thứ cảm tính toại nguyện, bất toại nguyện hay trung hòa, luôn tìm cách khơi động và thúc dục sự thèm muốn và ghét bỏ của bản năng. Nó xóa bỏ mọi xung năng, tư duy và tác ý, mọi đau buồn, khổ nhọc, hận thù, vui sướng, hân hoan, yêu thương, hờn giận, tiếc nuối. Nó xóa bỏ những ý đồ đen tối, những mưu mô biển lận và cả những ý nghĩ nhân hậu, chân thật và từ bi.

Tóm lại tánh không xóa bỏ cả cái tốt lẫn cái xấu, tất cả các hình tướng và những sự chuyển động của chúng trong thế giới kể cả năm thứ ngũ uẩn của một cá thể. Nó tẩy sách mọi thứ ô nhiễm trên dòng chảy liên tục của tri thức, không có một vết hằn nào của nghiệp có thể còn tồn lưu, không còn một tác ý nào được sinh ra, không còn một sự tạo dựng nào được hình thành. Dòng tri thức đó tuy vẫn tiếp tục luân lưu, thế nhưng thật tinh khiết, nhẹ nhàng và trong suốt, trong hơn cả không gian vô tận, nhẹ hơn cả hư vô, tinh khiết hơn cả tánh không, bởi vì cái tri thức đó đã trở thành chính “tánh-không” của “tánh-không”.

Khi dòng tri thức đã trở thành “tánh-không-của-tánh-không” hay nói cách khác là đã được thay thế bởi thể dạng “tánh không tối thượng không có gì vượt hơn được” do chính Đức Phật nêu lên trong một bài kinh thật ngắn là Culasunnata-sutta, thì cũng sẽ không còn bất cứ một chút tồn dư nào để có thể giúp ý thức được tính cách Đa Dạng hay Nhất Nguyên của mọi hiện tượng, hay để cảm nhận được thế nào là Phật Tính, Bản Thể của Phật, Như Lai Tạng, Hiện Thực, Chân như, Thực Tại, Niết Bàn, Tánh Không… và kể cả Tánh-Không-của-Tánh-Không, bởi vì tất cả các thuật ngữ ấy cũng chỉ đơn giản là những tên gọi mà thôi.

Tuy nhiên phía sau tất cả những thứ ấy và bên trong cái “tánh-không-của-tánh-không” ấy dường như vẫn còn lưu lại một nụ cười, một nụ cười thật trầm lặng của một Vị Phật đã ngồi yên hơn hai mươi lăm thế kỷ trên dòng luân lưu của tâm thức của mỗi chúng ta để chờ đợi chính chúng ta hôm nay.

Bures-Sur-Yvette, 01.11.12
Hoang Phong chuyển ngữ

Nói chuyện Thiền Định nhưng quý vị có hiểu Thiền Định là gì không?

Lời giới thiệu của người dịch:


Bài viết của Philippe Cornu

 

Thật rõ ràng là thiền định ngày nay đã trở thành một phong trào, và được chế biến thích hợp với đủ mọi khẩu vị. Từ Á Châu cho đến Tây Phương, và nhất là từ khi thế giới được toàn cầu hóa, thì thiền định chưa bao giờ lại mang tính cách đại chúng như hiện nay. Thế nhưng thiền định thật sự là gì? Thuật ngữ quen thuộc và đã được đại chúng hóa này muốn nói lên điều gì? Và những lý do nào đã khiến nhiều người không còn phân biệt được là các phép thiền định(các hình thức biến dạng và lạm dụng trong thế giới Tây Phương) có còn giữ được bản chất của Phật Giáo hay không? Không bao giờ và nhất định là không bao giờ được xem phép thiền định Phật Giáo như là một phương thuốc chữa trị các bệnh tâm thần

Điều hết sức quan trọng là phải minh định thật rõ ràng thực trạng này. Chúng ta nên hiểu rằng thiền định trong Phật Giáo mang một ý nghĩa thật chính xác: một phép tu tập tâm linh thật trọn vẹn hướng vào mục đích giải thoát tâm thức con người khỏi mọi sự kiềm tỏa của các nguyên nhân gây ra khổ đau.

Thế nhưng tuyệt nhiên không phải vì thế mà có thể xem thiền định như là một phương thứ thuốc trị bá bệnh, hay một giải pháp nhằm chữa lành mọi thứ đau buồn, hoặc một công thức chế biến nhằm tạo ra hạnh phúc! Thật vậy thiền định nào phải chỉ giản dị có thế… Cũng nên hiểu rằng không phải chỉ có Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo mới nói đến việc thiền định mà Ấn Giáo, các phép luyện tập du-dà (yoga) và kể cả phong trào New Age (tức là phong trào “Thời Đại Mới” một phong trào tâm linh của người Âu Châu được hình thành vào hậu bán thế kỷ XX, chủ trương những lý tưởng vay mượn của Thông Thiên Học (Theosophy) là một phong trào tâm linh khác được hình thành trước đó vào cuối thế kỷ XIX) cũng đều có nói đến chuyện này.

Tóm lại là thiền định mang nhiều ý nghĩa khác nhau qua nhiều bối cảnh khác nhau.

Vậy làm thế nào để có thể tìm hiểu thiền định là gì? Dầu sao đi nữa và dù rằng Phật Giáo là truyền thống tín ngưỡng lâu đời của Á Châu, thế nhưng cũng chỉ có một thiểu số người tu tập Phật Giáo thực hiện nghiêm túc việc hành thiền. Thậy vậy chỉ thấy có một số ít người Phật Giáo có trình độ cao là thực thi phép luyện tập này, họ là những người quyết tâm dành trọn đời mình vào việc tu tập tâm linh hướng vào con đường Giác Ngộ (thật vậy không nhất thiết là tất cả những ai tự nhận mình là người Phật Giáo đều có cùng một xu hướng giống nhau, một số không nhỏ chỉ thích tu tập dựa vào lễ lạc và các nghi thức tôn giáo nhiều hơn là hướng vào chủ đích giúp mình đạt được Giác Ngộ).

Do đó, ngay cả đối với Phật Giáo Theravada tức là Phật Giáo của vùng Đông Nam Á, thì thiền định cũng chỉ được thực thi bởi các vị tỳ kheo thuộc hệ phái Khất Sĩ, tức chỉ đại diện cho dưới 10% tổng số các vị tỳ kheo thuộc tông phái này. Số còn lại thì sống trong các chùa chiền nơi đô thị, sự sinh hoạt của họ chỉ gồm có việc học hỏi, tụng niệm và thuyết giảng cho người thế tục.

Ở Nhật Bản, thiền học Zen cũng chỉ là thiểu số trong số mười hai học phái Phật Giáo của quốc gia này, hơn nữa thiền học Zen cũng không thu hút được nhiều người thế tục, và ngay đối với những người xuất gia thì cũng không phải là ai cũng thực thi việc luyện tập thiền định.

Các học phái Kim Cương Thừa (ở Nhật) như Chân Ngôn Tông (Shingon) và Thiên Thai (Tendai) tự nhận là đặt việc luyện tập thiền định lên hàng đầu, thế nhưng cũng chỉ có một số ít chuyên cần. Các học phái Tịnh Độ và các nhánh thuộc học phái Nhật Liên (Nichiren) thì lại xem thường (trong nguyên bản là dédaigner / disdain)phép luyện tập này.

Ngay cả đối với Phật Giáo Tây Tạng cũng thế, dù trong chốn chùa chiền dành riêng vào việc ẩn cư hay trong các tu viện chuyên giảng dạy thiền định, thì cũng chỉ có những người du-dà (yogi / những người tu tập bằng phương pháp thiền định) và một thiểu số các nhà sư là chăm lo thiền định

Đối với những người tu tập tại gia và các nhà sư chuyên đảm trách nghi lễ cũng thế, cũng chỉ có một số thật ít ỏi chăm lo việc hành thiền. Dù rằng thiền định gồm có cố gắng đúng, chú tâm đúng và tập trung tâm thức đúng, là một trong số ba phép tu căn bản trên Con Đường Của Tám Điều Cao Quý (Bát Chánh Đạo) nhằm giúp người tu tập đạt được Giác Ngộ, thế nhưng hầu hết những người Phật Giáo lại không hề mang ra luyện tập. Điều đó cho thấy họ không hề nghĩ đến là phải hướng đời mình vào mục đích tối thượng trong kiếp sống này, vì thế Giác Ngộ quả là một thứ gì đó hết sức xa vời đối với họ.

Thuật ngữ Tây Phương dùng để chỉ thiền định có chính xác hay không?

Chữ “méditation” (người Tây Phương gọi thiền định là “meditation”) là do tiếng La Tinh meditatio mà ra. Từ này hoàn toàn thuộc vào ngôn ngữ Tây Phương và cũng đã được Thiên Chúa Giáo sử dụng từ hàng bao thế kỷ, vậy thuật ngữ này có thích nghi để gọi phép thiền định của Phật Giáo hay không? Nói một cách thật tổng quát thì chữ “méditation” chỉ có nghĩa là “sự chú tâm vào một đối tượng của tư duy”, và trong trường hợp này thì chữ méditation cũng chỉ để nói lên một quá trình tư duy hay một sự suy nghĩ nào đó, và như thế sẽ chẳng có gì dính dáng với ý nghĩa của chữ thiền định trong Phật Giáo cả (người dịch có dịp hỏi hai vị Philippe Cornu và Dominique Trottignon là nếu chữ méditation không phản ảnh được ý nghĩa của chữ Thiền Định tức là Bhavanâ trong tiếng Phạn, thì tại sao không tìm một chữ khác. Câu trả lời là mọi người đã quen hiểu như thế nên rất khó để thay bằng một chữ mới).

Trái lại nếu người ta sử dụng các chữ như “medeo” trong tiếng Hy Lạp mang ý nghĩa là sự “chăm sóc“ hay là chữ “mederi” trong tiếng La Tinh với ý nghĩa là sự“chữa trị” thì cũng có thể tương đối thích nghi hơn để nói lên ý nghĩa của chữ Phạn “bhâvana”, vì chữ này trong tiếng Phạn có nghĩa là chăm sóc cho tâm thức và nói lên một sự luyện tập hay trau giồi nào đó, tương tự như cày bừa một thửa ruộng để trồng trọt. Nếu định nghĩa chữ “méditation” theo ý nghĩa đó thì cũng tạm phản ảnh phần nào ý nghĩa của phép tu tập thiền định trong Phật Giáo. Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng không được phép hiểu thiền định như là một sự nghiền ngẫm (rumination) hay một hình thức nội quán (instrospection / sự suy nghiệm bằng cách nhìn vào bên trong tâm thức mình) thuộc lãnh vực tâm lý học hay những sự suy luận mang tính cách khái niệm (conceptual), và nhất là không được phép xem thiền định như là một kỹ thuật giúp mang lại một sự thư giãn nào cả.

Sau hết thiền định tuyệt đối không có gì liên hệ đến các hiện tượng nhập hồn (transe / trance) hoặc các thể dạng kích động tâm thần cực mạnh của những người đồng bóng (chamane / shaman). Và không bao giờ, xin hiểu cho là không bao giờ được phép xem việc luyện tập thiền định của Phật Giáo như thể dùng thuốc chữa trị tâm thần (psychotropes / psychoactive drugs).

Vậy thì thiền định Phật Giáo là gì?

Chữ “bhâvanâ” có nghĩa là “trau giồi…” hay là “chăm sóc…”, đồng nghĩa với chữ “gompa” trong tiếng Tây Tạng, hơn nữa chữ gompa lại còn mang thêm một ý nghĩa nữa là “tập cho quen dần” (familiarité / familiarity) hay là “thói quen” (habitude / habit, to be in the habit of…), tóm lại chữ “bhavanâ” nói lên một sự luyện tập giúp mang lại một sự chủ động hay một sự chín chắn nào đó (murissement / maturing).

Vì thế thiền định trước hết là một “phép luyện tập tâm linh” (exercice spirituel / spiritual excercise) mang ý nghĩa của chữ “ignatien” (chữ này mượn ý trong một câu chuyện nói về thánh Ignace de Loyola, thế kỷ XV, trong Thiên Chúa Giáo. Câu chuyện khá dài dòng, chỉ cần hiểu là tác giả Philippe Cornu nêu lên chữ này là có ý nói đến “sự vận hành của tâm thức bên trong mỗi con người”. Thiết nghĩ sở dĩ tác giả giải thích dông dài về vấn đề thuật ngữ như trên đây là nhằm vào mục đích nêu lên tính cách quy ước của ngôn từ. Mọi sự hiểu biết đều phải căn cứ vào quy ước, do đó phải định nghĩa thật chính xác các ngôn từ mới có thể truyền đạt được sự hiểu biết. Một cách vắn tắt là thiền định hay meditation không có nghĩa là một sự suy tư hay suy ngẫm nào cả mà là một sự luyện tập nhằm mang lại cho mình một sự biến cải hay cải thiện. Dù sao thì chữ “thiền định” cũng không gây ra nhiều khó khăn cho người Việt Nam chúng ta như chữ “meditation” đối với người Tây Phương).

Trên bình diện thật tổng quát thì thiền định có nghĩa là một sự biến cải tâm thức bằng chính tâm thức, hay nói cách khác là một phương tiện giúp khám phá ra các cơ chế vận hành (mécanisme de fonctionnement / operating mechanism) của tâm thức với mục đích tháo gỡ mọi sự bấn loạn, hầu giúp tâm thức có thể hiển lộ ra với mình(một cách tinh khiết hơn). Do đó thiền định là một phép luyện tập thật chủ yếu và hàm chứa một chiều sâu thật lớn. Dù rằng tâm thức lúc nào cũng hiện lên để điều khiển cuộc sống của chúng ta, thế nhưng chính nó lại là một thứ gì đó gần như hoàn toàn mù tịt đối với chúng ta! Chúng ta luôn bị tràn ngập bởi các dòng luân lưu của tư duy và xúc cảm, hoặc những ý nghĩ thật trong sáng hay cũng có thể là những lo âu thật nặng nề: nhiều lúc chúng ta bị khích động quá độ, nhiều lúc lại thất vọng buông tay, có lúc thì phấn khởi nhưng lắm khi cũng cảm thấy chán nản.

Thật hết sức rõ ràng là hầu hết trong số chúng ta không mấy ai kiểm soát được những gì hiện lên trong tâm thức, chẳng qua là vì đa số chúng ta gần như không hiểu gì cả về tâm thức của mình. Nói chung thì đấy là cách vận hành của sự sống, sự vận hành đó cứ để mặc tình cho tâm thức tha hồ đưa đẩy mình, mang mình hết nơi này đến nơi khác (hết quá khứ đến tương lai, hết hận thù đến yêu thương, hết mưu mô đến hy vọng, hết đau buồn đến hân hoan, và v.v…), tùy theo tâm trạng và các phóng tưởng do tâm thức tạo ra cho mình.

Vậy nếu muốn thiền định thì việc luyện tập phải khởi đầu như thế nào? Thật hết sức hiển nhiên, trước hết phải làm lắng xuống mọi sự xao động tức những biểu hiện của tâm thức trong cuộc sống thường nhật. Do đó giai đoạn đầu tiên trong việc hành thiền sẽ phải là samatha (chữ samatha là tiếng Phạn, kinh sách tiếng Việt gọi là “chỉ”, với ý nghĩa là một sự đình chỉ hay dừng lại),tiếng Tây Tạng là shiné, có nghĩa là thể dạng tĩnh lặng, bình lặng hay thăng bằng của tâm thức (quiétude / tranquility, quietness, peace), và đấy là thể dạng mang lại từ tư thế ngồi gọi là Vairocana (Lô-xá-na Phật còn gọi là Đại Nhật Phật) hoặc là một trong các biến dạng từ tư thế này.

Sau khi ngồi xong thì chọn cho mình một đối tượng thiền định, và sau đó thì chú tâm thật mạnh vào đối tượng này cho đến khi nào tâm thức hoàn toàn tập trung vào đối tượng ấy không một chút xao động nào. Giữ toàn thân bất động trong tư thế ngồi im, hai chân bắt tréo vào nhau, lưng thật thẳng, ngôn từ được thu hẹp và chỉ còn tượng trưng bởi không khí hít vào và thở ra của sự hô hấp (một hình thức phát lộ tư duy bằng những ngôn từ thật im lặng tức là hơi thở: hít vào và thở ra, bụng và ngực chuyển động, nhưng không phát ra một âm thanh nào dưới hình thức ngôn từ), sau hết chỉ cần chú tâm vào một điểm.

Những gì trên đây có vẻ rất đơn giản, thế nhưng trên thực tế phải luyện tập lâu dài, tuy nhiên còn tùy vào các kỹ thuật được sử dụng. Có thể chọn một đối tượng thiền định nào cũng được: thí dụ như một chữ cái, một cánh hoa, một ngọn nến, một bức ảnh của Đức Phật hay chỉ là một hòn đá cuội, hoặc đơn giản chỉ cần theo dõi hơi thở.

Như đã được trình bày trên đây, điều hệ trọng là phải đơn giản hóa tâm thức, thu nó trở về và tập trung nó, tức có nghĩa là làm cho nó lắng xuống và tập cho nó giữ một kỷ luật nào đó (không được phép tung hoành và náo loạn, gây ra mọi thứ xúc cảm cho mình như trước đây), tuy nhiên không được gò ép nó bằng một sự cố gắng nào cả, bởi vì đấy chỉ là cách tạo ra các tác động đi ngược lại với chủ đích mà mình mong muốn.

Nhiều người nghĩ rằng thiền định cũng chỉ đơn giản là phép luyện tập trên đây, tức là cách kết hợp giữa sự chú tâm, sự tập trung tâm thức và thể dạng bình lặng tâm thần nhằm mang lại một sự thư giãn nào đó. Cách hiểu này hoàn toàn sai lầm! Đấy chỉ là giai đoạn khởi đầu mang tính cách bắt buộc mà thôi. Dầu sao thể dạngsamatha (sự tĩnh lặng tâm thần) không nhất thiết là một đặc thù của Phật Giáo: phép luyện tập này cũng được thực thi trong Ấn Giáo và kể cả trong bất cứ một tín ngưỡng nghiêm chỉnh nào. Chủ đích của phép luyện tập này là nhằm đưa đến thể dạngsamâdhi (kinh sách tiếng Việt gọi là “định” với ý nghĩa là sự yên lặng, sự định tâm) tức là một thể dạng “lắng sâu vào thiền định” (chữ này trong nguyên bản là recueillement méditatif / deep meditation / thể dạng nhập định hay là sự trở về với nội tâm mình), trong thể dạng đó tâm thức sẽ giữ được sự hợp nhất (unifié / unified, consolidated / còn gọi là “nhất tâm”, một thể dạng tự nhiên của tâm thức khi nó không bị xao động bởi các thứ xúc cảm và tư duy đủ loại) tức là sự “tập trung vào một điểm” (unipointé / unipoint / hướng vào một điểm) giúp nó hướng thẳng vào đối tượng một cách thật tự nhiên, bình lặng và thư thái, không cần đến một sự cố gắng nào cả.

Sau khi thực hiện được giai đoạn trên đây thì sẽ có hai con đường mở ra cho chúng ta: con đường thứ nhất mà Ấn Giáo cũng có nói đến, là con đường giúp hòa nhập vào một sự tĩnh lặng sâu xa hơn nữa qua bốn cấp bậc “hòa nhập” (dhyâna) (trong nguyên bản chữ này là “absorption”, kinh sách gốc Hán gọi là “thiền-na” một từ dịch âm từ chữ dhyanâ, và bốn cấp bậc thì gọi là Tứ Thiền).

Cấp bậc thứ tư lại mở vào bốn thể dạng khác gồm có bốn cấp bậc “cân bằng” (samâpatti) (kinh sách Hán ngữ gọi là “đẳng chí”, “đẳng” có nghĩa là thứ bậc, và “chí” hay “trí” có nghĩa là ý nghĩ hay là “thức”, nói chung là các cấp bậc nhận thức cao độ hay các kinh nghiệm cảm nhận tâm linh ở các cấp bậc siêu đẳng, nhưng chưa phải là niết bàn), tức là một thể dạng thiền định đã loại bỏ được các ý niệm về thế giới và có thể mang lại một thể dạng trống không hoàn toàn không còn một sự cảm nhận nào.

Mặc dù con đường này có thể mang lại những “khả năng tâm linh khác thường”, thế nhưng tuyệt nhiên không phải là con đường đưa đến Giác Ngộ, vì thế hầu hết các học phái đều khuyên không nên chọn con đường này, hoặc tìm cách nêu lên tính cách không thiết thực của con đường ấy. Con đường thứ hai dựa vào sự tĩnh lặng tâm thần nhằm khơi động thể dạng trong sáng và năng động của tâm thức, giúp nhận biết được bản thể đích thật của nó cũng như của tất cả các hiện tượng cảm nhận. Sự nhận biết ấy gọi là sự “quán thấy siêu việt”, tiếng Pa-li là vipassanâ, tiếng Phạn là vipashyanâ (tiếng Tây Tạng là lhagt’ong), giúp làm gia tăng thêm khả năng quán nhận minh bạch và sự hiểu biết siêu nhiên hay trí tuệ (prajnâ). Duy nhất chỉ có con đường này mới đúng là con đường đưa đến Giác Ngộ và sự giải thoát, và mới đúng thật là con đưởng của Phật Giáo.

Những gì trên đây tương đối cũng không phải là khó hiểu lắm, tuy nhiên cũng vẫn còn có một vài “rắc rối” khác thuộc lãnh vực thuật ngữ đối với các học phái thiền học Trung Quốc và Nhật Bản. Các học phái này gọi chung tất cả các thể loại thiền định khác nhau bằng một thuật ngữ duy nhất là chan (thiền), tiếng Nhật là zen. Chữchan có gốc từ tiếng Hán là chan-na (thiền-na), thế nhưng chan-na cũng lại là một từ dịch âm từ chữ Phạn dhyâna. Trong trường hợp này thuật ngữ dhyâna (tức làchan / zen) sẽ không còn chỉ định các thể dạng “hòa nhập” (“absorption” / hấp thụ, hội nhập…, tức là các thể dạng thiền-na của Tứ Thiền) nữa mà có nghĩa là toàn bộbhâvanâ (thiền định), tức gồm chung cả samatha(sự tĩnh lặng tâm thần)vipashyanâ (sự quán thấy siêu việt hay siêu nhiên)!

Tuy nhiên đối với số đông những người bình thường chưa có một số vốn học hỏi cần thiết, sẽ còn có thêm một rắc rối sau cùng liên quan đến thuật ngữ chan, bởi vì chữ này cũng lại được sử dụng để chỉ định một học phái quan niệm rằng phép thiền định có thể giúp quán nhận được bản thể của tâm thức một cách đột ngột, học phái này lại cũng chính là Chan (Thiền) của Trung Quốc, và sau đó đã trở thành Seun của Triều Tiên, Zen của Nhật Bản, và Thiền của Việt Nam…

Trên đây là phần giải thích liên quan đến lãnh vực thuật ngữ, sau đây là phần trình bày về các phương pháp luyện tập trong phép thiền định.

Các phép luyện tập trong Phật Giáo

Hầu hết các học phái chủ trương một sự thăng tiến tuần tự đều cho rằng hai thể dạng samatha(sự tĩnh lặng tâm thần)vipashyanâ (sự quán thấy siêu việt) tương kết với nhau và hiện ra một cách tuần tự, hoặc xen kẽ nhau, từ thể dạng này chuyển sang thể dạng khác (các học phái này gồm có Phật Giáo Đại Thừa của Ấn Độ và Tây Tạng, Thiên Thai Tông – hay Tientai – của Trung Quốc), hoặc cho rằng hai thể dạng này luôn kết chặt với nhau (chẳng hạn như Phật Giáo Theravada trong vùng Đông Nam Á).

Một số các học phái khác lại chủ trương cho rằng sự tiếp cận (với sự Giác Ngộ) xảy ra trực tiếp hơn, đó là các học phái Chan / Zen của Trung Quốc và Nhật Bản, các học phái Mahâmudra (Đại Thủ Ấn) và Dzogchen (Đại Cứu Kính) của Tây Tạng. Các học phái này cho rằng sự quán thấy đột ngột bản thể của tâm thức hay bản thể của Phật (Phật Tính) là một khả năng có sẵn nơi tất cả chúng sinh. Các học phái này không hề nói đến những gì nêu lên bởi các thuật ngữ như samathavipashyanâ (tóm lại là hầu hết tất cả các học phái thiền xuất phát từ Thiền Trung Quốc đều chủ trương một sự Giác Ngộ bất thần và đột ngột, và chỉ cần ngồi thiền đúng cách và kiên trì).

Tuy nhiên thật hết sức ngây thơ khi nghĩ rằng những người tu tập theo các học phái này bất chấp đến việc thuần hóa tâm thức trước khi đạt được bản thể của tâm thức!

Nói một cách đơn giản là các học phái này không quan tâm nhiều đến các giai đoạn luyện tập sơ khởi trên đây (tức là samatha và vipashyanâ) mà chỉ giao khoán cho các vị thầy giảng dạy sử dụng các phương pháp riêng của họ giúp cho các thiền sinh hé thấy bản thể của tâm thức và theo đó mà tự tìm hiểu thêm và tiếp tục luyện tập cho đến khi nào đạt được sự toàn thiện. Vì thế đối với thiền học Zen, thể dạng satori (Ngộ) hay là những kinh nghiệm cảm nhận đột ngột về sự Giác Ngộ, luôn đòi hỏi người tu tập phải để ra một thời gian luyện tập lâu dài trước khi có thể đạt được sự thực hiện hoàn hảo: các vị thầy như Zongmi (Guifgeng Zongmi là một vị thiền sư Trung Quốc, 780-841, kinh sách tiếng Việt gọi là Khuê Phong Tông Mật) và Chinul (Bojo Jinul là một vị thiền sư Triều Tiên, còn viết là Chinul, 1158-1210, kinh sách tiếng Việt dịch là Tri Nột) gọi đấy là “sự Giác Ngộ đột ngột và sự luyện tập tuần tự” (luyện tập thì mang tính cách tuần tự thế nhưng Giác Ngộ thì hiện ra một cách đột ngột. Điều đó cũng hữu lý, bởi vì không có ai luyện tập trong một phút mà lại có thể mang lại kết quả được, thế nhưng sự hiểu biết siêu nhiên khi bùng lên sẽ rất đột ngột tương tự như một tia chớp xé rách cả không gian).

Học phái Dzogchen (Đại Cứu Kính) còn gọi là Đại Hoàn Thiện cũng chủ trương quan điểm trên đây tức cho rằng sự quan thấy mang tính cách trực tiếp, thế nhưng cũng phải luyện tập thiền định lâu dài giúp mang lại cho mình một sự thăng tiến vững chắc trước khi đạt được sự Giác Ngộ hoàn hảo.

 

Con đường thiền định không phải và cũng không bao giờ
được phép xem như là một hình thức sinh hoạt nhằm
mang lại sự an vui và sức khoẻ

Các hình thức lệch lạc của thiền định

Ngày nay người ta bàn luận quá nhiều và cũng quá hời hợt về chuyện “thiền zen” (trong nguyên bản là chữ “zenitude”, là một chữ mới được đặt ra gần đây trong các ngôn ngữ Tây Phương, nhằm chỉ định các thể dạng thư giãn, trầm tĩnh, an vui… mang lại từ phép thiền định zen) thế nhưng không hề ý thức được là phép luyện tập zen nói lên cả một sự nghiêm túc và kiên trì của phép thiền định.

Hơn nữa hiện nay nhiều phép luyện tập như Sophrologie (một phương pháp luyện tập kết hợp các phép thiền định và du-dà của Đông Phương với các phương pháp thể dục của Tây Phương nhằm mang lại các tác động tâm thần tích cực. Phương pháp này do một bác sĩ chữa trị tâm thần người Colombia là Alfonso Caycedo sáng lập vào năm 1960), phương pháp Chánh Niệm (Pleine Conscience / Mindfulness) và các ngành MBSR (Mindfulness-Based Stress Reduction / khoa phát huy chánh niệm làm giảm bớt sự căng thẳng tâm thần) đang được phát triển rộng rãi, và nhiều người nghĩ rằng việc thiền định cũng thế, tức cũng chỉ đơn giản là một kỹ thuật giúp làm giảm bớt sự căng thẳng tâm thần (stress) nhằm mang lại một sự thư giãn sâu xa nào đó. Trên thực tế MBSR do Jon Kabat-Zinn thiết kế bằng cách vay mượn phép luyện tập samatha của Phật Giáo và xem đấy như là một phương tiện làm giảm đau và các tình trạng căng thẳng tâm thần với chủ đích chữa trị y khoa.

Tất nhiên là không cần nhắc lại và cũng không nên nghi ngờ gì cả về những lợi ích trên mặt sức khoẻ do các kỹ thuật luyện tập của Phật Giáo mang lại cho tất cả mọi người khi họ cần đến. Thế nhưng những chuyện ấy chẳng có gì gọi là Phật Giáo cả, nhất là không liên quan gì đến chủ đích nguyên thủy của thiền định trong Phật Giáo: là sự Giác Ngộ. Với chủ đích này thiền định không hề nhắm vào việc làm tạm thời giảm xuống một tình trạng căng thẳng tâm thần nào cả. Dưới góc nhìn đó, thiền định Phật Giáo không hề là một công cụ giúp cho một cá nhân phát triển, mà là một phương tiện cực mạnh nhằm biến cải toàn bộ con người với mục đích giúp con người vượt lên trên các cơ chế và chủ đích của thế giới thế tục.

Không nên tự đánh lừa mình mà phải ý thức thật minh bạch rằng con đường thiền định nhất thiết phải hướng vào mục đích mang lại sự Giác Ngộ, không nên và cũng không bao giờ được phép xem đấy là một hình thức sinh hoạt nhằm mang lại sức khoẻ, hay một phương tiện mang lại hạnh phúc một cách dễ dàng. Phải thật cảnh giác, đàn cừu của ai thì người ấy chăn (không được “đánh cắp” cừu của người khác để lùa chung vào đàn cừu của mình): các bác sĩ cũng như các vị chữa trị tâm thần nếu sử dụng các kỹ thuật thiền định của con đường Phật Giáo thì phải mạnh dạn nói lên điều đó và đồng thời cũng phải tự giới hạn trong các lãnh vực hoạt động của mình.

<

Về phần những người Phật Giáo thì lúc nào cũng phải ý thức là thiền định không phải là chuyện hời hợt, mà là cả một phương tiện quý báu giúp mình thăng tiến trên con đường tu tập tâm linh, nhằm giúp mình loại bỏ mọi chướng ngại ngăn chận mình trên đường Giác Ngộ. Nếu không thì rồi đây mọi sự lạm dụng sẽ khó tránh khỏi trở thành những mối hiểm nguy to lớn cho Phật Giáo, tức có thể biến Phật Giáo trở thành một hình thức nào đó của các phong trào đại loại như New Age (phong trào tâm linh tạp nhạp của Tây Phương). Điều ấy sẽ làm băng hoại cả sức sống trong những lời giáo huấn của Đức Phật, tương tự như những gì mà chúng ta (những người Tây Phương) đã biến du-dà trở thành một phương pháp luyện tập thể dục nhẹ nhằm mang lại sự thư giãn.


Vài lời ghi chú của người dịch

Tuy ngắn gọn thế nhưng bài viết trên đây của một người tu hành chân chính và một học giả nghiêm túc cũng đã nêu lên nhiều vấn đề khiến chúng ta phải suy ngẫm, nhất là đã mở ra cả một tầm nhìn thật bao quát và đồng thời cũng rất chi tiết và chính xác về phép luyện tập thiền định của Phật Giáo. Bài viết cũng nêu lên một số các hình thức lạm dụng và biến dạng của phép tu tập này trong thế giới Tây Phương. Tuy nhiên trong khuôn khổ và giới hạn của những lời ghi chú, người dịch cũng xin mạn phép chỉ nêu lên hai chủ đề đáng chú ý nhất:

– trước hết là trong số những người tự nhận mình là Phật Giáo, và dù là họ tu tập theo tông phái nào, tại gia hay xuất gia, thì cũng chỉ có một số thật ít ỏi là chuyên cần luyện tập thiền định. Vậy chúng ta phải hiểu sự kiện này như thế nào?

– sau đó là những lời cảnh giác của tác giả Philippe Cornu trước tình trạng lạm dụng phép thiền định của Phật Giáo cũng như các hình thức ứng dụng lệch lạc của phép luyện tập này đang rầm rộ trở thành cả một phong trào ở thế giới Tây Phương.

Khi Đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên nêu lên Bốn Sự Thật Cao Quý tức là Tứ Diệu Đế, thì Ngài cũng đã nói đến phép luyện tập thiền định trong Con Đường của Tám Điều Cao Quý (Âryâstângamargâ / Bát Chánh Đạo) thuộc vào Sự Thật Thứ Tư (Margasatya):

“Này các tỳ kheo, đây là sự thật cao quý trên con đường mang lại sự chấm dứt khổ đau. Con đường đó là con đường cao quý gồm tám điều là: nhìn đúng, suy nghĩ đúng, ăn nói đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng, tập trung tâm thức đúng và hiểu biết đúng”
(kinh Dhammacakkapavattanasutta – Samyutta Nikâya / Kinh Pháp Luân – Tương Ưng Bộ Kinh)

Đấy là tám phép luyện tập phải đem ra thực hiện một cách đồng loạt giúp người tu tập làm cho mọi thứ khổ đau phải chấm dứt. Tuy nhiên hình ảnh một con đường thì đồng thời cũng nói lên một sự thăng tiến nào đó, và sự thăng tiến ấy có thể phân chia thành ba giai đoạn hay ba chặng đường mang tính cách vừa song hành và vừa tuần tự là: tu giới, tu định và tu tuệ.

Tu giới (sila) gồm có ba điều đúng đắn: ăn nói đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống đúng;

tu định (samâdhi) gồm có: cố gắng đúng, chú tâm đúng, tập trung tâm thức đúng, tu định tức là thiền định hay là các cách luyện tập giúp mình trở về với chính mình;

tu tuệ (prajnâ) có nghĩa là thực hiện sự Giác Ngộ, gồm có: tư duy đúng và sự hiểu biết đúng.

Những lời giảng huấn của Đức Phật thật vô cùng trong sáng, giản dị, thâm sâu và minh bạch! Thế nhưng ba phép luyện tập trong số Tám Điều Đúng Đắn là cố gắng đúng, chú tâm đúng, tập trung tâm thức đúng, gọi chung là samâdhi, đã được Bồ-đề Đạt-ma đem ra thực hành bằng cách ngồi im nhìn vào một bức tường trong chín năm để làm gương và để truyền lại cho người Trung Quốc. Người Trung Quốc vay mượn chữ “dhyanâ” trong tiếng Phạn và dịch âm chữ này là “Chan-na” để gọi phép tu tập ấy.

Qua thời gian và chịu ảnh hưởng bởi các kinh nghiệm và tính khí con người, phép luyện tập Chan-na còn gọi tắt là Chan đã biến thành Suen, Zen, Thiền… Do đó ba phép luyện tập nguyên thủy do Đức Phật nêu lên trong Con Đường Bát Chánh là cố gắng đúng, chú tâm đúng, tập trung tâm thức đúng cũng theo đó mà trở nên phức tạp và rắc rối hơn: nào là công án, roi vọt, đánh đập, chặt tay, trợn mắt, pha trà, chẻ củi, gánh nước, làm bếp, v.v… khiến người tu tập ngày nay không còn biết đường nào mà lần.

Thế nhưng đấy cũng không phải hoàn toàn là lỗi lầm của các vị thiền sư trong quá khứ, bởi vì từ một khía cạnh nào đó họ bắt buộc phải sáng chế ra các phương tiện thích nghi giúp các thiền sinh hé thấy tâm thức của họ nhằm giúp họ tìm cách trở về với chính mình. Sự trở về đó gọi là sự “hòa nhập” (recueillement / sự hội nhập, sự thấm sâu) vào bản thể nguyên sinh của tâm thức, kinh sách cũng gọi thể dạng “hòa nhập” vào tâm thức này là dhyanâ. Tất cả cũng chỉ giản dị có thế: một thể dạng trở về với bản thể nguyên sinh giúp mình suy nghĩ đúng và hiểu biết đúng (hai điều cuối cùng trên Con Đường Bát Chánh) tức là những phẩm tính của trí tuệ làm hiện lên sự Giác Ngộ trong tâm thức thật tinh khiết của người tu tập.

Tuy hết sức giản dị thế nhưng tại sao hầu hết những người Phật Giáo lại không thực hiện được? Lý do cũng lại không phải là quá khó hiểu, chẳng qua là vì con đường Bát Chánh gồm có ba giai đoạn, thế nhưng không mấy ai đã vượt được giai đoạn đầu tiên là tu giới, thì thử hỏi làm thế nào họ có thể bước vào giai đoạn thứ hai là thiền định được?

Thật vậy, một khi đã không giữ được những điều sơ đẳng nhất như tham lam, giận dữ, ghét bỏ, hận thù, mưu mô, lừa đảo, dối trá, hung bạo, bám víu, si mê… đưa đến mọi thứ lo buồn, xao lãng và sợ hãi, thì làm thế nào có thể ngồi xuống trong im lặng để tìm về với chính mình được. Một cách cụ thể là sau những buổi hát xướng, vui chơi, ăn uống, rượu chè, tham dục, mưu mô, tính toán, hoặc sau những buổi lễ với cờ quạt phất phới, chuông mõ vang rền… thì còn tâm trí đâu để mà ngồi xuống nhìn vào một bức tường trước mặt?

Dù có cố gắng thật nhiều đi nữa thì sự cố gắng ấy cũng chỉ tạo ra một khung cảnh giả tạo với những cách hành xử và tư duy gượng ép, khác hẳn với phong thái trầm lặng, uy nghi, thanh thản và buông xả của một người hành thiền.

Tất nhiên là có những điều kiện thuộc lãnh vực cá nhân chẳng hạn như bản tính, cơ duyên, lòng quyết tâm…, chi phối sự luyện tập của mỗi cá thể, thế nhưng lý do chính yếu nhất là nếu chưa thực hiện được việc giữ giới thì thật khó lòng mà ngồi xuống để hành thiền.

Philippe Cornu thật hết sức có lý khi ông nói rằng:

“Thiền định là cách giúp người tu tập đạt được Giác Ngộ, thế nhưng hầu hết những người theo Phật Giáo lại không mang ra luyện tập. Điều đó cho thấy là họ không hề biết hướng vào mục đích tối thượng trong kiếp sống này, vì thế Giác Ngộ quả là một thứ gì đó thật hết sức xa vời đối với họ”.

Thật vậy sự Giác Ngộ vẫn còn ở một chân trời nào đó thật xa xôi, ngay cả đối với phần đông những người tự nhận mình theo Phật Giáo. Họ phung phí kiếp sống này một cách vô ích.

Điều thứ hai đáng để nêu lên là những hình thức biến dạng của phép thiền định ở thế giới Tây Phương. Philippe Cornu hoàn toàn có lý khi cảnh giác chúng ta rằng thiền định không phải là một phương thuốc chữa trị làm giảm đau và các tình trạng căng thẳng tâm thần (MBSR), và cũng không phải là một phương pháp đơn giản chỉ nhằm mang lại cho người tu tập thể dạng gọi là Chánh Niệm (Pleine Conscience / Mindfulness).

Thiền định là một phương pháp luyện tập siêu việt, phản ảnh lòng quyết tâm, sự kiên trì và sức cố gắng lớn lao của người tu tập giúp mình vượt khỏi thế giới của mọi sự trói buộc để hướng vào Giác Ngộ. Dầu sao thì đối với bất cứ một hiện tượng nào trong tâm thức hay thuộc vào bối cảnh của thế giới bên ngoài, tất cả đều không sao tránh khỏi sự biến dạng được. Thiền định du nhập vào thế giới Tây Phương cũng đã thích ứng với tánh khí và văn hóa của người Tây Phương và do đó cũng đã mang thêm một vài khía cạnh biến dạng nào đó. Vô thường là một hiện tượng hay một quy luật thiên nhiên vô cùng bao quát và rộng lớn, phép thiền định không phải là một ngoại lệ. Đức Phật có giảng như sau:

“…Thế nhưng có một nơi an trú [trong tâm thức] mà Như Lai đã khám phá ra được, nơi ấy Như Lai không hướng vào bất cứ một chủ đề [suy tư] nào mà chỉ hội nhập và thường trú trong sự trống không của nội tâm. Trong lúc thường trú nơi ấy và xuyên qua cảnh giới ấy, nếu có những người đến viếng Như Lai, thì dù họ là các tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni, là người thế tục, là đàn ông hay đàn bà, là vua chúa, là quan lại chốn triều đình, là các vị lãnh đạo giáo phái và các môn đệ của họ, thì tâm thức của Như Lai [lúc nào cũng] hướng vào sự đơn độc, mở rộng vào sự đơn độc, tiếp nhận sự đơn độc, nhìn vào sự đơn độc, tận hưởng sự từ bỏ [buông xả], và sau khi đã loại bỏ được các phẩm năng cơ bản làm dấy lên các sự xao động tâm thần, thì Như Lai chỉ đàm đạo với họ về những gì thật cần thiết và để tự họ cáo từ”.
(Kinh Mahasunnatasutta – Maijhima Nikaya / Bài kinh dài về Tánh Không – Trung A Hàm).

Đức Phật không mô tả nơi mà Ngài đã khám phá ra trong tâm thức mình mà chỉ nói rằng mình luôn an trú trong cảnh giới ấy, tuy nhiên chúng ta cũng có thể hiểu rằng cảnh giới ấy là cảnh giới của thiền quán. Đức Phật cũng không mô tả Tánh Không là gì và cũng không giải thích sự Giác Ngộ là gì mà Ngài chỉ nói rằng mình hướng vào sự đơn độc, mở rộng vào sự đơn độc, tiếp nhận sự đơn độc, nhìn vào sự đơn độc, tận hưởng sự buông xả. Chúng ta cũng nên hiểu rằng đấy là cách mà Ngài giảng cho những con người chất phác cách nay hơn hai mươi lăm thế kỷ. Thế nhưng bất cứ ai tìm đến với Ngài thì Ngài cũng đều tiếp, nếu họ hỏi gì thì Ngài cũng đều trả lời họ một cách tối thiểu, đúng với những gì mà họ muốn hiểu và để tự họ cáo từ. Ngài không nhìn vào một bức tường, cũng không “hự” lên một tiếng và im bặt không trả lời bất cứ ai dù là hỏi bất cứ điều gì, cũng không đánh đập hay trợn mắt lên với ai cả. Ngài không nấu bếp, chẻ củi, không uống trà đúng nghi thức quy định, mà chỉ khất thực và uống nước sông, nước suối tìm thấy hai bên vệ đường trên những nẻo đường hoằng Pháp.

<

Những gì vừa nêu lên cho thấy thiền định không nhất thiết chỉ mới biến dạng như hiện nay khi du nhập vào một mảnh đất mới là thế giới Tây Phương. Vì thế chúng ta phải chấp nhận vô thường và sống với nó, thế nhưng phải ý thức được những gì đang xảy ra chung quanh để không những không chạy theo nhập bọn với những đàn cừu khác mà còn phải quay về chăn đàn cừu trong tâm thức mình.

Chăn được đàn cừu trong tâm thức mình không cho chúng chạy tán loạn khắp nơi, thì mới có thể tréo chân ngồi xuống nghỉ ngơi, và để nhận thấy trước mặt mình hiện ra những thảm cỏ xanh, núi đồi và sông suối, trên bầu trời có những đám mây đang lững lờ trôi.

Bures-Sur-Yvette, 24.10.13
Hoang Phong chuyển ngữ

Thiền và Kiếm

‘Thiền’ tiếng phạm gọi là “Dhyana”, nghĩa đen là định niệm. Ngoài ra “thiền” còn được hiểu như “phương pháp tu dưỡng” ở Nhật Bản nói riêng và đông phương nói chung. Nói đến thiền chúng ta thường hình dung cảnh tham thiền nhập định, ngồi kiết già, điều tức quay mặt vào tường trong thiền viện, hoặc liên tưởng đến trạng thái thoát tục, thanh thoát nhẹ nhàng như nước chảy hoa nở, mây bay, trăng soi, một trạng thái thần tiên hòa nhịp với thiên nhiên cỏ cây như qua mấy vần thơ sau:

Tâm như minh kính
Hoa lai kiến hoa
Nguyệt lai kiến nguyệt

Dịch:

Tâm như gương sáng
Hoa nở ngắm hoa
Trăng mọc xem trăng

Vì thế Thiền được hiểu là trạng thái hòa hợp tuyệt diệu giữa con người và vạn vật. Khi tâm định và trong sáng như gương thì người tu thiền quán tưởng sự vật xung quanh một cách tự nhiên giống như ngắm hoa nở, nhìn trăng soi trên mặt nước hồ thu. Con tim thiền giả hòa nhịp với dòng sống vũ trụ để cùng thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên.

Thực tại hay hình tướng sự vật với con mắt phàm tục của chúng ta nhận định đẹp hay xấu, vui hay buồn, đúng hay sai, có hay không có, nó cũng thay đổi tùy thuộc vào tâm thiền định của người tu thiền. Trạng thái này có thể tạm được diễn tả qua câu thơ sau:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

“Tâm” và “cảnh” được nhà vua Trần Nhân Tông, đệ nhất tổ của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam cô đọng trong bài thơ sau:

Nước đẩy nước trôi, đời vạn sự
Tâm nghe lòng nhủ, tháng năm trôi

(Ðăng Bảo Ðài Sơn)

Vậy thì “Kiếm” có liên quan gì đến “Thiền”? Kiếm gợi cho chúng ta hình ảnh về chiến tranh, giao đấu giữa những chiến sĩ thời xưa, ngoài ra nó còn là khí cụ dùng để phòng thân hay sát nhân. Thực ra nó hoàn toàn không hẳn như thế.

Nhìn từ tư tưởng Ðông Phương Thiền học, kiếm thuật còn là một phương pháp tu tâm dưỡng tánh. Kiếm biểu tượng trạng thái động, năng động đối lập với trạng thái tĩnh yên lặng. Ðối với người võ sĩ thanh kiếm biểu tượng cho dũng khí và sức mạnh tinh thần, linh hồn. Về mặt kiếm pháp người võ sĩ phải học phương thức phát huy hiệu năng tối đa cách sử dụng thanh kiếm trong khi giao đấu. Vì thế dụng kiếm có hai tác dụng: Tu thân và Phòng thân.

Hơn nữa người võ sĩ muốn đạt đến tuyệt đỉnh của kiếm pháp phải ngày đêm luyện tập cách sử dụng đường kiếm sao cho thật điêu luyện, song song với đó cần phải tu tâm để đạt được trạng thái tự tại, gìn giữ một số quy luật võ sĩ đạo. Tâm định là yếu tố quan trọng nó giúp người võ sĩ quán tường sự vật đúng đán và chính xác. Nhân tố này sẽ giúp người võ sĩ hành động có hiệu quả và hữu ích.

Ngày xưa ở Nhật Bản có truyền thống người đi học kiếm đạo là những võ sĩ đi tìm chân lý, ý nghĩa nhân sinh. Nơi đào tạo những võ sĩ gọi là “Ðạo Trường”, đôi khi ngay chính Thiền viện ở trên núi cũng là nơi để luyện tập kiếm pháp, tinh thần, tu dưỡng tâm trí. Tiếc rằng tỷ lệ người thấu hiểu triết lý của kiếm đạo, sống đúng theo nó không có là bao.

Tư tưởng “Kiếm Thiền Nhất Như” (Kenzen ichijo) đề ra bởi võ sư Sơn Cương Thiết Châu (Yamaoka Tesshu), vào năm Minh Trị thứ 13. Sơn Cương sinh trưởng trong một gia đình thuộc giai cấp võ sĩ (Samurai) vào thời Mạc Phủ (Bakufu), trưởng thành ngay vào thời điểm công cuộc vận động canh tân hiện đại hóa Nhật Bản đang vào đoạn đường cuối cùng, giai đoạn đấu tranh kịch liệt giữa thành phần sĩ phu bảo thủ và cấp tiến, một phe chủ trương duy trì chế độ Mạc Phủ bế quan tỏa cảng, còn một phe kia chủ trương mở cửa giao thương với Tây Âu trong tinh thần “Hòa Hồn Dương Tài” (Wakon Yosai).

Cuối cùng sau trận thư hùng phe chủ trương canh tân đã thắng và thời đại Minh Trị Duy Tân ra đời cũng là lúc chấm dứt giai cấp võ sĩ. Vào giai đoạn đó Sơn Cương là lãnh tụ Nhượng Di Ðảng (phe bảo thủ), tức ông ta thuộc vào phe thua. Hơn nữa nhân tố biến đổi chính trị đất nước, chịu nền giáo dục nho gia với tư tưởng “trung, hiếu, chí thành” có thể nói ảnh hưởng không nhỏ đến sự tư duy của Sơn Cương. Ông ta đã đạt đạo với trợ duyên của vị Thiền Sư ở Thiên Long Tự (Tenryuji), sau thời gian gian dài tọa thiền, tu luyện, dằn vặt, ưu tư về kiếm pháp, cũng như địch thủ cùng với công án “ Làm sao để tránh hai đầu thanh kiếm không chạm nhau”.

Sau thời gian tu tập, tư duy Sơn Cương Thiết Châu đưa đến kết luận: “ Công phu khổ luyện để đạt đến tuyệt đỉnh của kiếm pháp là Vô Ðịch”. Danh từ ghép Vô Ðịch ở đây bao hàm ý nghĩa thiền học rất đặc biệt. Nó không được hiểu theo nghĩa bình thường con người thường hiểu. “Vô Ðịch trong việc tu luyện kiếm đạo nhắc nhở người võ sĩ dù trong lúc giao đấu thập tử nhất sinh nhưng vẫn không xem đối thủ là kẻ thù”. Cũng theo Sơn Cương Thiết Châu: “ Trong kiếm pháp bao gồm triết lý về căn nguyên vũ trụ. Mục tiêu cao nhất của người võ sĩ là luyện cho tâm được thanh tịnh, không tranh thắng bại”.

Ðây cũng là mục đích thiền kiếm, dùng hùng tâm để hóa giải, thắng tà ý của đối phương, chứ không phải thanh kiếm. Khi tâm người võ sĩ trở nên trong sáng như mặt nước hồ thu, như bầu trời không gợn chút mây đen, lòng dũng cảm sẽ phát sinh. Từ đó sẽ tỏa ra sức mạnh tinh thần vô địch. Ðó cũng chính là nhân tố để quyết định cuộc đấu. Ðể đạt được cảnh giới “Vô Ðịch” như đã trình bày ở trên, người võ sĩ phải tự mình khắc kỷ, khắc khổ tu tập ngày đêm, vượt qua ý niệm thắng thua, sinh tử. Nếu trong lòng còn mang tư tưởng thắng bại trong khi tu luyện thì không thể nào đạt đến tuyệt đỉnh của kiếm pháp. Ðiều này cho thấy chỉ có bản thân người võ sĩ thể nghiệm được qua tập luyện. Tương tự nước nóng hay lạnh, chỉ người uống nước mới cảm nhận, hay như người leo núi, chỉ có người leo đến đỉnh núi mới thấy được cảnh hùng vĩ của thiên nhiên.

Tinh thần vô địch mà Sơn Cương triển khai, có thể tìm thấy trong Ðạo Ðức Kinh của Lão Tử:

Tri nhân giả trí
Tự tri giả minh
Thắng nhân giả hữu lực
Tự thắng giả cường

Biết người là Trí
Biết mình là sáng
Thắng người là do sức mạnh
Thắng chính mình mới là mạnh

Người võ sĩ đạt đạo luôn luôn bình thản tự nhiên trong mọi hoàn cảnh, cho dù ở giữa bãi chiến trường, một phần họ đã thấm nhuần triết lý sống xem cái chết nhẹ tựa hồng mao, coi đại nghĩa nặng tựa núi thái sơn. Người võ sĩ trang bị với tinh thần Thiền nhìn tất cả những hiện tượng xảy ra trước mặt có đó mà không có đó. Ðể đạt đến trạng thái vô tâm, vô niệm, người võ sĩ cần phải hiểu rốt ráo tinh thần “Bản lai vô nhất vật” trong bài kệ của tổ Huệ Năng:

Bồ đề bản vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xử nhạ trần ai

Dịch

Bồ đề vốn không cây
Gương sáng vốn không đài
Nguyên lai không có thực
Chỗ đâu bụi đời bám

Theo Sơn Cương công việc tu học kiếm pháp được xem như phương tiện để đạt đến chân lý, làm sao cho tâm trở nên sáng, thấu triệt sự uyên nguyên của tạo hóa, cuối cùng phát hiện “Phật Tính” vì “bản lai vô nhất vật.”

Trong cuộc sống hằng ngày đầy phiền não, ưu tư, lo lắng, con người phải vật lộn với đời sống, thiên nhiên, trực diện với hoàn cảnh thay đổi nhanh chớp nhoáng như trên màn ảnh máy điện toán, máy truyền hình. Ðôi khi bối rối không biết phán xét, nhận định thực hư ra sao, thiền định giúp chúng ta quân bằng, tĩnh tâm và đơn giản ngay trong nếp sống. Tức là đạt được cái tĩnh trong cái động.

Cũng có người bảo Thiền là “buông xả”, là “phá chấp”. Ðó cũng chỉ nói lên một khía cạnh của Thiền. Thiền là sự sống, dòng sinh mệnh liên tục chảy vô tận không ngừng nghỉ, đôi khi chúng ta không nhận thấy hay lãng quên mà thôi. Trong mỗi khoảng khắc, mỗi niệm, hay sát na là những hạt nhân vun trồng vườn hoa tâm linh để ngày ngày tăng trưởng hài hòa trong dòng sống chúng ta.

Tư tưởng thiền là sự biết trong cái không biết, niệm trong sự vô niệm, hữu tâm trong sự vô tâm, ý thức trong vô ý thức và phân biệt trong vô phân biệt. Nói lên tính chất lưỡng diện vừa khẳng định và phủ định bao hàm trong tư tưởng Thiền.

Tư tưởng này được Quốc sư Vạn Hạnh vào đời Lý diễn tả trong bài thơ sau:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân sinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Dịch

Thân như tia chớp có lại không
Cỏ cây xuân sanh thu lại khô
Cuộc đời lên xuống vội lo chi
Lên xuống như hạt sương rơi đầu cỏ.

Tư tưởng thiền vượt không gian và thời gian, minh chứng sự vô thường của ngũ uẩn cấu tạo thể xác. Nhưng dòng sinh mệnh là “vô thủy vô chung” không có sự khởi đầu cũng như không sự tận cùng. Dòng sống hòa cùng vũ trụ “ngã tức vũ trụ” như cỏ cây sinh trồi nẫy nở trong mùa xuân,trưởng thành vào mùa hạ, héo tàn theo mùa thu, ấp ủ vào mùa đông. Cũng như ‘xuất sinh nhập tử” trong sự sống hàm chứa sự chết, trong cái chết đang nẩy sinh ra đời sống mới, tuần hoàn theo luật thịnh suy của tạo hóa, giống như giọt sương ban mai trên đầu ngọn cỏ, có đó rồi tan vào không gian.

Thiền và Kiếm bề ngoài có vẻ như tương khắc, mâu thuẫn với nhau, nhưng thực ra giống như hai mặt của bàn tay, bổ túc cho nhau, tương sinh lẫn nhau. Vì trong động có tĩnh và trong tĩnh có động, thể hiện trong tư tưởng “sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong cái gọi là “không” có sự hiện hữu trong đó, và trong cái gọi là “có” hàm chứa tính “không”. Cũng có thể nói võ sĩ và thiền sư tuy hai mà là một, phương tiện mang theo trong cuộc hành trình tuy khác nhau có cùng chung mục đích là đạt đến chân lý và giúp đời. Hơn nữa đối thủ thực sự nó nằm ngay trong chúng ta, dùng phương cách nào để chuyển hoán nó vượt thắng nó người đó sẽ để trở thành vô địch.

Thời đại Sơn Cương không còn nữa, nhưng con người trăm năm qua và con người ngày hôm nay dù ở bất cứ nơi đâu dưới khung trời nào vẫn là con người muôn thủa với tất cả căn tính tốt lẫn xấu trong đó. Vì thế tư tưởng “Vô Ðịch” của Sơn Cương có lẽ vẫn còn sống, và hy vọng còn áp dụng cho hoàn cảnh hiện nay ở đất nước Việt Nam còn quá nhiều hận thù, nghèo khổ, chậm tiến và cho cả thế giới nói chung.

Quang Dục
_http://www.ngocbao.org

Phật Giáo là một đường lối sống

Có câu hỏi như sau:

– Một người đang theo tôn giáo khác, nếu muốn học Phật pháp thì có gì trở ngại hay không?

Đáp:

– Bất cứ ai, dù đang theo tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào, mà muốn học Phật pháp, đều không có gì trở ngại cả. Phật giáo không phải là một tôn giáo mê tín, mà là một hệ thống giáo dục dựa trên quy luật nhân quả để chuyển hóa con người từ xấu thành tốt, “không làm điều xấu ác, siêng làm điều tốt lành”. Sau giai đoạn chuyển xấu thành tốt, con người trở nên hoàn thiện, thì sẽ có những thiện quả tạo thành duyên lành cho đương sự bước vào bước tu tập thứ hai là “tự thanh tịnh tâm ý”, hoàn toàn rũ bỏ Tham Sân Si, chuyển từ mê lầm sang giác ngộ, tỉnh thức, giải thoát khỏi vòng sinh tử, khai phóng tâm linh bất sinh bất diệt.

Nhà Phật rất hoan nghênh bất cứ ai muốn tìm hiểu Phật pháp và nghiên cứu Tam Tạng kinh, luật, luận, trong kho tàng kinh điển của đạo Phật. Có nhiều học giả thâm hiểu giáo lý nhà Phật, – trong số đó có những người Tây Phương, – viết sách luận giải về đạo Phật, là những người thuộc các tôn giáo khác, không phải là Phật tử. Nhiều kinh sách nhà Phật đã được dịch ra tiếng Anh bởi những học giả vốn là tín đồ các tôn giáo khác, đọc kinh sách Phật giáo vì tò mò, hoặc có trường hợp đọc với mục đích tìm những điểm không ưng ý để chỉ trích. Nhưng sau khi tiến sâu vào tư tưởng nhà Phật, họ cảm nhận được tinh thần khai phóng, từ bi, bình đẳng, nên trong lòng họ có sự chuyển hóa, tăng trưởng thiện cảm đối với đạo Phật. Khởi đầu là tìm hiểu phần lý thuyết, dần dần họ bước vào phần thực hành các phương pháp luyện tâm qua thiền quán Phật giáo, thấy được an lạc. Càng đi sâu vào tư tưởng uyên áo của đạo Phật, họ càng thấy tâm hồn được tự tại, giải thoát.

Một số người tìm tòi nghiên cứu kinh sách nhà Phật không vì thiện ý, nhưng cuối cùng lại trở thành những tu sĩ đáng kính, có công lớn trong việc hoằng truyền Phật pháp tại các quốc gia Tây Phương. Ngày nay, nếu chúng ta vào một tiệm sách online, thí dụ Amazon.com, click vào chữ Buddhism, chúng ta sẽ thấy xuất hiện gần bốn chục ngàn tựa sách Phật giáo, hầu hết đều do người Tây Phương viết.

Câu hỏi thứ hai:

– Muốn tu tập theo Phật giáo, có cần phải bỏ tôn giáo của mình, chuyển qua đạo Phật không?

Đáp:

– Điểm son của đạo Phật là tinh thần tôn trọng đời sống nội tâm và sinh mạng muôn loài. Tôn giáo, tín ngưỡng, là vấn đề rất tế nhị, có những ràng buộc tình cảm sâu xa đối với quá khứ và thân quyến của đương sự. Cho nên người Phật tử không thuyết phục người khác bỏ tôn giáo của họ để theo đạo Phật. Đức Phật là bậc Giác Ngộ. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ. Giác thì không mê, cho nên người Phật tử không muốn ai bước vào đạo Phật bằng con đường mê tín.

Những người từ đạo khác chuyển qua đạo Phật, phần lớn là do họ nghiên cứu kinh điển thâm sâu, hiểu được phần cốt tủy, tự ý đi tìm các vị tu sĩ để làm thủ tục gia nhập cộng đồng Phật tử. Cũng có những trường hợp không cần thủ tục gì cả, người muốn thực hiện những bước tu tập của đạo Phật cứ tự nhiên y theo lời dạy của đức Thế Tôn: “Không làm điều xấu ác, siêng làm điều thiện lành và tự thanh tịnh hóa tâm”, không để cho tâm hồn bị dính mắc vào bất cứ một giáo điều, một hình ảnh nào cả, như thế cũng xứng đáng là một Phật tử đúng nghĩa rồi.

Có rất nhiều thí dụ về thái độ tôn trọng các tôn giáo khác của người Phật tử. Chúng tôi xin đơn cử vài trường hợp, như vua A Dục, trị vì xứ Maurya, miền Bắc Ấn Độ từ năm 272 đến năm 236 trước công nguyên, mất năm 231. Ông là một Phật tử thuần thành, đã ứng dụng lời dậy của đức Phật vào việc trị nước, đem lại thanh bình cho toàn xứ Ấn Độ thời đó. Quan điểm của ông là làm sao cho dân chúng có một đời sống hạnh phúc, gồm tự do, lòng từ bi, tránh chém giết, tôn trọng sự thật. Ông cũng là người cổ võ việc ăn chay và chống tệ nạn giết thú vật để cúng tế. Trong một trụ đá kỷ niệm, có khắc lời ông như sau:

– “Ta không nên chỉ đề cao tôn giáo của mình mà chê bai các tôn giáo của người khác, mà nên tôn trọng những điều hay của các tôn giáo khác nữa. Hành xử như thế, ta sẽ giúp cho nếp sống đạo của ta tăng trưởng và đồng thời cũng giúp những người thuộc các tôn giáo khác sống đạo. Nếu làm ngược lại, là chúng ta tự chôn vùi tôn giáo của mình và cũng làm hại những tôn giáo khác. Bất cứ ai tôn vinh tôn giáo mình trong khi chỉ trích các tôn giáo khác, mà nghĩ rằng: “Tôi ngợi ca, thờ phượng tôn giáo của tôi”, thật ra là làm thương tổn sâu xa cho tôn giáo của chính họ. Cho nên, sống hài hòa với nhau thì tốt hơn. Hãy lắng nghe, lắng nghe với thiện ý những học thuyết của các tôn giáo khác”.

Tiến sĩ Malasekara cũng nói :

– “Không bao giờ có chuyện đạo Phật truyền giáo bằng cách ép buộc những người không thích phải tin theo mình, lại càng không dùng các thủ đoạn gây áp lực, hoặc nịnh nọt tâng bốc, hoặc dối trá lừa phỉnh, để đạt được thắng lợi trong sự hoán chuyển tư tưởng người khác. Những nhà truyền giáo của đạo Phật không bao giờ tranh đua để giành người cải đạo như ở nơi chợ búa”.

Đạo Phật đã bị hiểu lầm rất nhiều, người thì cho rằng đạo Phật chỉ lo cúng đám làm chay cho người chết, kẻ lại nghĩ rằng đạo Phật chỉ thích hợp với các bậc tu sĩ ở ẩn. Với mục đích trình bày sự trong sáng của đạo Phật, chúng tôi xin kính gửi tới quý thính giả một bài pháp trích dịch từ cuốn “What the Buddha Taught”, do hòa thượng Walpola Rahula giảng:

…”… Có một số người cho là đạo Phật quá cao siêu, một đường lối tu quá nghiêm túc, khắc khổ, khiến cho những người dân bình thường sống trong thế giới ngày nay không thể kham nổi. Như thế, nếu muốn thực hành giáo pháp, muốn làm một Phật tử chân chính, người ta phải rút lui vào các tu viện, hoặc những nơi vắng vẻ.

Rõ ràng đây là một sự hiểu lầm rất đáng tiếc, do thiếu hiểu biết về giáo lý nhà Phật. Người ta thường vội vã có những kết luận sai lầm như thế, sau khi nghe một vài mẩu chuyện, hoặc tình cờ đọc một cuốn sách, mà vì thiếu sự tìm hiểu rộng rãi, tác giả đã viết về đạo Phật một cách phiến diện.

Giáo lý của nhà Phật không phải chỉ dành riêng cho giới tu sĩ trong tu viện, mà là của tất cả mọi người, kể cả những nam nữ cư sĩ sống trong gia đình. Tuân theo Bát Chánh Đạo là sống trong tinh thần Phật giáo. Dù là tu sĩ hay cư sĩ, mọi người đều có thể áp dụng nguyên tác này vào cuộc đời, không phân biệt.

Đại đa số dân chúng trên thế giới không thể trở thành tu sĩ, hay rút lui vào các hang động hoặc rừng sâu núi thẳm để ẩn tu. Vậy nếu những người này mà không ứng dụng được lời dạy của đức Phật vào đời sống hằng ngày của họ thì dù những lời dạy ấy có cao siêu, tinh khiết đến đâu đi nữa, đối với họ cũng là vô dụng. Tuy nhiên, nếu bạn hiểu đúng tinh thần của giáo pháp, — không phải chỉ hiểu theo từ ngữ — thì chắc chắn bạn có thể thực hành Phật pháp trong khi vẫn sống cuộc đời bình thường.

Có thể có một số người cảm thấy nếu ở ẩn tại một nơi xa xôi vắng vẻ, chấm dứt các hoạt động xã hội, thì sự hành trì Phật pháp sẽ dễ dàng và thoải mái hơn. Nhưng lại cũng có thể có người thấy rằng đời sống ẩn dật đó thật là tẻ nhạt, khiến cho cả tâm hồn và thể xác của họ đều uể oải, không thể giúp cho cuộc sống tinh thần và nội tâm của họ được thăng hoa.

Sự ẩn dật chân chính không có nghĩa là phải xa lánh hẳn thế gian. Tôn giả Sariputta, một đại đệ tử của Phật nói rằng, một người có thể tu khổ hạnh trong rừng nhưng tâm vẫn đầy những tư tưởng ô nhiễm, bất tịnh, trong khi một người khác có thể sống trong làng mạc hay thành thị, không thực hành khổ hạnh, mà tâm lại thanh tịnh, trong sáng. Ngài nói, so sánh giữa hai người ấy, thì người sống cuộc đời thanh tịnh nơi làng mạc, thành thị, lại cao cả và giá trị hơn người kia rất nhiều.

Dường như đối với một số người thì sự lui về ẩn tu trong một nơi vắng vẻ, không bị quấy nhiễu phiền phức, sẽ cảm thấy thoải mái. Nhưng nếu có thể thực hành Phật pháp tại nơi ồn náo, sống giữa đồng loại để giúp đỡ và phục vụ họ, thì lại càng can đảm và đáng khuyến khích hơn. Trong vài trường hợp, người ta có thể sống ẩn dật để tịnh tu một thời gian cho đời sống nội tâm thêm sâu sắc, đạo lực thêm bền chắc, ngõ hầu trau giồi cho nhân cách tăng trưởng, thêm khả năng để sau này giúp đỡ mọi người.

Mặc dầu vậy, nếu có người nào mà lại đem cả cuộc đời dành cho sự sống trong cô độc, chỉ nghĩ đến hạnh phúc và “cứu rỗi” cho riêng mình, không quan tâm đến đồng loại, thì điều này chắc chắn không phù hợp với lời dạy của đức Phật, vốn đặt nền tảng trên tình thương, lòng trắc ẩn và sự phục vụ tha nhân.

Kinh Sigala đã nói lên sự quan tâm sâu sắc của đức Phật đối với cách hành xử của người cư sĩ tu tại gia, trong những mối dây liên hệ với gia đình và thân bằng quyến thuộc, như sau:

Có một chàng thanh niên tên Sigala, vâng theo lời dặn dò của người cha trước khi qua đời, hằng ngày thường quay mặt về sáu Phương là Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới, để sì sụp lễ lạy.

Đức Phật bảo anh ta rằng theo Phật pháp, sáu Phương có nghĩa khác. Phật pháp dạy rằng Phương Đông là cha mẹ, Phương Nam là thầy dạy, Phương Tây là vợ con, Phương Bắc là bạn bè, quyến thuộc, láng giềng, Phương Dưới là người làm công và thợ thuyền, Phương Trên là tu sĩ và đạo sư. Ngài dạy Sigala phải tôn kính sáu Phương này. Ở đây chữ tôn kính có ý nghĩa rất đặc biệt, vì người ta chỉ tôn kính cái gì thiêng liêng, cao quý, đáng kính. Đạo Phật coi sáu nhóm người này như là những điều thiêng liêng, xứng đáng được tôn kính.

Nhưng làm thế nào để tỏ lòng tôn kính?

Đức Phật dạy rằng chỉ có thể tỏ lòng tôn kính chân thành bằng cách làm tròn bổn phận đối với họ. Những bổn phận này được đức Phật giảng giải rõ ràng cho Sigala như sau:

– Thứ nhất: cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái. Cha mẹ là Trời. Từ ngữ “Trời” để biểu tượng sự cao quý và thiêng liêng nhất, theo tư tưởng Ấn Độ. Cho nên ngay tại thời đại này, trong những gia đình theo đạo Phật thuần thành, sáng chiều hằng ngày, con cái vẫn có những hành động để tỏ lòng tôn kính cha mẹ. Họ phải làm một số bổn phận đối với cha mẹ theo giáo lý nhà Phật: Săn sóc khi cha mẹ già yếu, làm những điều cần thiết để giúp đỡ cha mẹ, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình, bảo vệ tài sản cha mẹ để lại, và khi cha mẹ qua đời thì cử hành các nghi thức trong tang lễ của cha mẹ.

Về phần cha mẹ, họ cũng có những bổn phận đối với con cái, phải giữ gìn, dạy bảo cho con cái tránh xa những đường tà, khuyến khích con cái làm những việc tốt lành và ích lợi, cho con cái được hưởng một nền giáo dục chu đáo, tìm những gia đình lương thiện cho con cái kết hôn và khi con cái đã trưởng thành thì chia gia tài cho họ.

– Thứ hai: liên hệ giữa thầy và trò. Người học trò phải kính trọng và vâng lời thầy, phải chú ý đến những sự cần thiết của thầy, nếu thầy cần, phải chăm lo học hành. Về phía thầy, phải tận tâm dạy bảo học trò một cách chu đáo, giới thiệu bạn tốt cho trò và khi trò tốt nghiệp thì cố gắng tìm việc làm để bảo đảm kế sinh nhai cho trò.

– Thứ ba: liên hệ giữa chồng và vợ. Tình yêu giữa vợ chồng được coi gần như một nếp sống đạo, có tính cách thiêng liêng. Giữa vợ và chồng phải có sự tin cậy, kính trọng, hy sinh, và có những bổn phận đối với nhau. Chồng phải luôn luôn tôn trọng vợ, không được thiếu sự kính nể đối với vợ, phải thương yêu và chung thủy đối với vợ, phải bảo đảm vị trí và tiện nghi của vợ, và nên làm vui lòng vợ bằng cách tặng nàng y phục và nữ trang. (Sự kiện đức Phật không quên đề cập đến việc tặng quà cho vợ khiến chúng ta thấy được sự mẫn cảm và tế nhị đầy nhân bản của Ngài đối với niềm cảm xúc của những con người bình thường). Về phía người vợ, phải tề gia nội trợ chu đáo, làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân nhân và người làm công. Vợ phải yêu thương và chung thủy với chồng, phải biết giữ gìn gia sản, phải khôn khéo và hoạt bát trong công việc.

– Thứ tư: liên hệ giữa bạn bè, bà con, hàng xóm láng giềng: Mọi người phải niềm nở và tử tế đối với nhau, nói năng vui vẻ, hòa nhã, phải làm việc có lợi ích cho nhau và đối xử bình đẳng với nhau, không cãi cọ mà giúp đỡ lẫn nhau khi cần và đừng bỏ rơi khi người ta gặp hoàn cảnh khó khăn.

– Thứ năm: liên hệ giữa chủ và người làm công: người chủ có nhiều bổn phận đối với người giúp việc hoặc người làm công, phải lượng sức của người ta để mà giao việc phù hợp, tiền lương phải tương xứng, phải cung cấp thuốc men và thỉnh thoảng tặng thưởng cho người ta. Về phía người làm công thì phải chăm chỉ làm lụng, không lười biếng, phải lương thiện và vâng lời chủ, không ăn gian nói dối và phải tận tụy trong công việc

– Thứ sáu: liên hệ giữa tu sĩ và cư sĩ: với niềm kính quý, người cư sĩ phải quan tâm đến những nhu cầu vật chất của tu sĩ,người tu sĩ phải truyền bá sự hiểu biết cho cư sĩ với tấm lòng từ bi, lân mẫn và hướng dẫn họ đi trên chánh đạo, không lọt vào tà đạo.

Như vậy, chúng ta đã thấy rõ rằng dù là một người dân bình thường sống trong gia đình, tham dự những sinh hoạt ngoài xã hội, họ vẫn được thụ hưởng sự giáo hóa của đức Thế Tôn, vẫn có thể tu tập, tạo sự an lạc trong nếp sống của một người Phật tử …”…

thuvienhoasen online

Phóng Sinh

Hỏi:

Vào các ngày lễ như lễ Phật Đản, lễ Vu Lan và lễ Rằm Tháng Giêng, tôi thấy các chùa thường có lễ phóng sinh tiếp ngay sau phần nghi thức lễ chính. Vậy xin vui lòng cho tôi biết ý nghĩa của việc phóng sinh và có phải phóng sanh sẽ làm giảm bớt nghiệp bệnh của mình hay được phước thật hay không? Có người nói rằng mua chim phóng sanh không có phước mà lại vô tình sát hại chim và bị những người buôn bán chim cá lợi dụng bắt nhiều thêm để bán thủ lợi, xin quý vị cho biết ý kiến. 

Trả lời:

Đạo Phật xuất hiện trên thế gian là từ thành quả tu hành của thái tử Tất Đạt Đa. Sau một quá trình thanh tịnh hóa tâm, thái tử bừng tỉnh, giác ngộ thành Phật. Phật là phiên âm của chữ Phạn “Buddha”, có nghĩa là “người tỉnh thức”. Từ ngữ Buddha dịch sang tiếng Trung Hoa là “giác giả ”, có nghĩa là “người giác ngộ”. Người Trung Hoa phiên âm chữ Buddha thành ra Phật Đà, hoặc Phật. 

Do sự bừng tỉnh, giác ngộ này, đức Phật thấu suốt cội nguồn của thế giới hiện tượng tương đối, trực nhận được rằng tất cả các loài hữu tình chúng sinh cũng đều có đầy đủ trí huệ, giác tánh — còn gọi là Phật tánh — y như Ngài, cũng có khả năng thành Phật như Ngài. Cho nên tuyên ngôn đầu tiên của Ngài sau khi thành Phật là: 
Tất cả chúng sinh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai” 
 và:
 “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. 

Từ ngữ chúng sinh ở đây không để chỉ riêng loài người, mà là bao gồm tất cả mọi loài sinh vật có cảm giác. 

Đức Phật do tu chứng mà giác ngộ được những điều trên. Khoa học ngày nay dù không do tu chứng, nhưng nhờ những nghiên cứu, thí nghiệm, cũng đã xác nhận phát biểu của Ngài là có cơ sở thực tế, không phải là mê tín. 

Bản tin về Đại Hội Khoa Học ở Dublin, Ái Nhĩ Lan hồi tháng Chín năm 2005 thông báo rằng, theo kết quả thí nghiệm của bác sĩ Filippo Aureli, đồng giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu về Nhân Chủng và Cổ Sinh Học của trường đại học Liverpool John Moores, thì có lẽ mối liên hệ giữa loài người và loài vật gần nhau hơn là những điều trước kia người ta đã tưởng. Trình bày kết quả công trình nghiên cứu từ các thú vật có lông, bác sĩ Aureli cho biết rằng ông thấy chúng biểu lộ cảm xúc y như loài người trong đời sống hằng ngày. Ông giải thích rằng trong khi nghiên cứu, ông đã thấy chúng có những hành động như kỳ cọ thân thể để được sạch sẽ, lo lắng khi cảm thấy có điều bất thường, nguy hiểm có thể xảy ra. Trong tình trạng bồn chồn, khắc khoải, chúng cũng cắn móng chân hoặc bứt lông như loài người cắn móng tay, bứt tóc khi thần kinh căng thẳng. Ông cho rằng khỉ và vượn là những loài phân biệt đối xử dựa theo tình cảm bằng hữu rất rõ ràng. Tùy theo mối liên hệ thân sơ mà chúng quyết định cách ứng xử với đối phương khác nhau theo từng trường hợp. 

Nhiều nhà khoa học trải qua những năm tháng theo dõi đời sống của loài vật nhận thấy rằng không phải chúng là những sinh vật vô cảm, chỉ biết ăn rồi sinh đẻ, như những bộ máy chỉ cần cho nhiên liệu vào là sản xuất . Trái lại, đời sống của chúng đầy ắp những tình cảm, cũng sôi động yêu đương, đau khổ vì ghen tuông, vì sự chết chóc của con cái, vân vân. Một nhà nghiên cứu thú hoang kể lại rằng trong dịp theo dõi một đàn voi, ông chợt phát hiện một con voi lớn bỗng nhiên rời khỏi đàn, đứng lại, rống lên ai oán. Ông ta cố gắng tìm hiểu, thì phát hiện ra rằng con voi đó đang đứng bên cạnh một con voi nhỏ nằm dưới đất, có thể là con nó, dường như đã chết rồi. Theo dõi suốt hai ngày tiếp theo, ông thấy voi mẹ vẫn quanh quẩn bên voi con, và cả đàn voi thì cũng không đi xa, chỉ loanh quanh gần đó, như chờ đợi. Cho đến sáng ngày thứ ba, có lẽ voi mẹ đã nhận ra được thực tế chăng, hay là nhờ đồng loại thuyết phục, nên nó dùng vòi hất đất cát như muốn lấp xác con nó, rồi vừa rống lên thê thảm, vừa bước theo đàn ra đi.

Nhiều người trong chúng ta cũng đã từng chứng kiến những biểu lộ tình cảm của loài vật. Chúng ta cũng đã được nghe kể về những con chó trung thành với chủ, bỏ ăn khi chủ đi xa, hoặc như tại địa phương kia, có con chó chiều chiều ra sân ga xe lửa đón chủ đi làm trở về. Một hôm, chủ bị bạo bệnh bất thình lình ở sở, được chở vào nhà thương rồi qua đời. Vì không có thân nhân lãnh xác nên bạn bè chôn cất ngay tại nghĩa địa gần nhà thương. Con chó vẫn như thường lệ, ngày ngày ra ga ngồi đón chủ hàng mấy tiếng đồng hồ, cho tới đêm tối lại lủi thủi một mình về nhà. Mọi người thấy lạ, đem đồ ăn cho mà nó không ăn. Mãi tới hai tuần lễ sau, nó gầy rạc rồi nằm lử ra ở sân ga mà chết. Dân chúng gần đó bèn xây một bức tượng của nó ngay tại sân ga để vinh danh tấm lòng trung thành của nó đối với chủ. 

Có rất nhiều câu chuyện về lòng trung thành của loài vật nuôi trong nhà, được chủ âu yếm, săn sóc, đã đối đáp lại bằng những tấm chân tình. Ngay cả những con vật không được săn sóc, âu yếm, sự biểu lộ cảm xúc, lo âu của chúng nó cũng rất rõ ràng, thí dụ những người ở gần lò sát sinh, như lò heo Chánh Hưng, thường kể lại những câu chuyện thương tâm khi những con bò bị lôi vào lò mổ, có thể là do linh tính báo trước, hoặc do mùi đặc biệt nơi lò sát sinh, mà chúng thường trì lại, đôi khi khuỵu hai chân trước xuống như van lạy, nước mắt ứa ra từ cặp mắt bi thương, thống thiết. Có những bà nội trợ kể chuyện khi làm món ếch xào lăn phải lột da con ếch, thấy nó chắp hai chân trước như là người ta chắp tay lạy xin tha mạng.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tuy loài vật không thể biểu lộ cảm xúc bằng ngôn từ của loài người, thay vào đó, chúng phát biểu bằng hành động.

Đức Phật là bậc Toàn Trí và Toàn Bi. Sau khi thành đạo, Ngài dùng tất cả quãng đời còn lại gần nửa thế kỷ để đi các nơi từ gần đến xa mà giáo hóa chúng sinh. Tựu trung, những lời dạy dỗ của Ngài đều nhằm mục tiêu phát triển lòng từ bi và trí tuệ nơi con người. Những lời dạy đó đã được chư đệ tử của Ngài thu thập và viết lại trong kinh tạng, nhờ vậy, chúng ta ngày nay tuy ra đời sau khi Phật diệt độ đã trên hai ngàn năm trăm năm, mà vẫn còn được thấm nhuần những lời dạy dỗ vàng ngọc của Ngài.

Về mặt Trí Tuệ, Ngài dạy các phương pháp thiền quán, giữ gìn giới hạnh, tu tập để sống tỉnh thức, hóa giải Tham Sân Si, thanh tịnh hóa tâm.

Về mặt Từ Bi, đức Phật dạy mở rộng lòng trắc ẩn, tăng trưởng tình thương đối với chúng sinh, không chỉ riêng đối với loài người, mà còn phải dàn trải tâm từ tới tất cả các chủng loại sinh vật, vốn cũng có giác quan cảm xúc, cũng biết đau đớn, thậm chí cũng biết ghen tuông, buồn vui, biết thương yêu cha mẹ con cái, đau khổ khi phải biệt ly nhau, y như con người.

Với hành trang tinh thần phong phú và cao quý đó trong tâm, chư Tăng Ni và các Phật tử thuần thành của nhà Phật đều siêng năng thực hành lời dạy này. Đó là nguồn gốc của tục lệ phóng sinh trong những dịp lễ lớn của nhà Phật, hành động đã trở thành một biểu tượng nói lên lòng tri ân sâu xa, như là một lễ vật tinh thần thiêng liêng dâng lên đức Phật, để tỏ lòng thành kính vâng theo những lời dạy của Ngài.

Vậy phóng sanh là gì?

 Phóng sanh có nghĩa là giải thoát những sinh vật đang bị tù đày, giam hãm trong lồng chậu, nhà giam, đang bị tra tấn, đánh đập hoặc sắp bị giết, tức là hành động mang lại sự sống cho chúng sinh đang bị đe dọa đến tính mạng.

Bắt nguồn từ hai bộ kinh Phật giáo Bắc Tông là kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới và kinh Kim Quang Minh, tục lệ phóng sinh được phát triển mạnh ở Trung Hoa, truyền sang Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. 

Trong kinh Phạm Võng, đức Phật dạy: “Người con Phật vì lòng từ bi mà làm việc phóng sanh và khuyên bảo người khác làm. Nếu thấy người đời sát sanh thì nên tìm cách cứu cho chúng được thoát khỏi nạn khổ.” Kinh Kim Quang Minh cũng kể lại những thí dụ về lòng từ bi cứu giúp chúng sinh khỏi chết.

Vào thời đại nhà Tùy bên Trung Hoa, đại sư Trí Khải ở núi Thiên Thai truyền giảng kinh Kim Quang Minh và kinh Pháp Hoa, phát động phong trào đào ao phóng sinh, tiết kiệm tiền để mua lương thực nuôi cá. Sự việc này mở đầu cho việc phóng sinh và đào ao phóng sanh ở Trung Hoa từ đó. Đến cuối đời nhà Minh có đại sư Liên Trì là một trong những cao tăng rất tích cực truyền bá việc phóng sinh. Ngài đã để lại các bài thuyết giảng về ăn chay, về giới sát, về phóng sinh, cũng như về nghi thức phóng sinh trong tập “Trúc Song Tùy Bút”, khuyên mọi người không nên ăn thịt chúng sinh để khuyến khích tôn trọng giới sát và tích cực phóng sinh. 

Tục phóng sinh được phát khởi từ tinh thần từ bi và bình đẳng giữa chúng sinh. Phóng sinh cũng như ăn chay, chính là một phần của việc giữ giới không sát sinh, một trong năm giới cấm mà người Phật tử khi quy y Tam Bảo thường phát lên lời nguyện giữ gìn, không vi phạm.

Gần năm chục năm giáo hóa chúng sinh, đức Phật để lại rất nhiều lời dạy trong kinh tạng, nhưng tóm lại đều cô đọng trong mấy câu sau đây:

— Không làm điều ác 
— Siêng làm việc thiện 
— Thanh tịnh hóa tâm 

Không sát hại sinh vật, dù gián tiếp như ăn thịt động vật, hoặc trực tiếp như cầm dao giết con vật, là làm việc thiện một cách thụ động, nằm trong lời dạy thứ nhất “Không làm điều ác”

Phóng sinh cứu mạng sống, là làm việc thiện tích cực, nằm trong lời dạy thứ hai “Siêng làm việc thiện”

Đối với những người tu tập trên con đường Bồ Tát đạo thì ngoài những giới luật gọi là “chỉ trì”, là những giới “cấm không được làm”, còn phải giữ những giới gọi là “tác trì”, nghĩa là những giới “phải làm”, thí dụ nếu thấy có sự lâm nguy, đau khổ tới cho chúng sinh mà người tu theo Bồ Tát đạo lại khoanh tay đứng nhìn, không giúp kẻ khốn cùng, thì tức là đã phạm vào giới “tác trì”, tức là giới “phải làm”. Như thế theo tinh thần này, người Phật tử không những không sát hại sinh vật mà còn phải cứu sinh vật đang bị đe dọa đến tính mạng, đang bị giam giữ tù đầy trong lồng chậu, cứu cho chúng khỏi chết, nghĩa là giải thoát chúng, trả tự do cho chúng về với bầu trời sông nước, về với gia đình tổ ấm của chúng. Chính vì vậy, theo truyền thống Phật giáo Bắc Tông, Giới Sát bao gồm cả việc phóng sinh

Như vậy, phóng sinh là một việc làm rất tốt, rất đáng đươc ca ngợi. Tuy nhiên, nhà Phật có câu “tùy duyên, bất biến”. Bản chất của sự tu hành để tăng trưởng lòng từ bi là bất biến. Nhưng trong hành động thì cần tùy duyên, nghĩa là tùy trường hợp, tùy địa phương mà hành động, để vẫn có thể phù hợp với chân lý, đồng thời cũng hợp thời, hợp cảnh, kinh Phật gọi là khế lý và khế cơ.

Vào thời xa xưa, trong những dịp lễ có phóng sanh, các cụ mua cá cho bơi trong chậu nước hoặc mua cả dỏ cua đồng, loại cua nhỏ bằng ngón chân cái, đem lên chùa cúng rồi đem ra sông thả. Sau khi được thả, mấy con vật thường lặn ngay xuống nước. 

Ngày nay thì khác. Chúng ta ở trong thành phố nên ít khi có được cá hoặc cua sống, cho nên chúng ta mua chim để thả. Những con chim bị bắt để bán cho người phóng sinh này thường phải chờ đợi một thời gian trước khi tới giờ phút được tháo cũi xổ lồng. Trong thời gian chờ đợi đó, chúng không được săn sóc chu đáo vì dường như không ai có bổn phận phải chăm lo cho mấy con chim trong lồng nằm chờ nơi góc sân kia được ăn uống no đủ.

Chúng tôi xin trình bày một trường hợp cụ thể về phóng sinh ngay tại một ngôi chùa ở quận Cam. Vì phải trải qua nhiều thời gian chờ đợi buổi lễ cầu an, cầu siêu nên chim đã chịu đói khát, lại phải chịu thân phận tù đày thêm cả buổi nữa ngay nơi chánh điện chùa. Cuối cùng, sau khi chấm dứt phần chót của lễ quy y cho chúng do vị ThượngToạ chủ lễ thì chim cũng được sổ lồng đấy, nhưng có một số đã quá yếu sức, lừ đừ, bay lên không nổi, chỉ là đà rồi rớt xuống, quờ quạng, tắt hơi. 

Vậy thì chúng ta cần phải xét lại việc phóng sinh chim và thả cá. Chim bị bắt nhốt vào lồng, cá bị bắt thả trong chậu bán ngoài chợ là do người giăng lưới vây bắt vì nhu cầu tiêu thụ, để ăn hoặc để phóng sinh. Điều này có nghĩa là nếu không có nhu cầu mua chim cá thì chim cá sẽ không bị giăng lưới và nhốt vào lồng chậu. Qua sự kiện này chúng ta nhận thấy, vì muốn phóng sinh nhằm tạo phước mà người phóng sinh lại vô tình thúc đẩy những người khác giăng lưới bắt chim cá, đến nỗi tự họ lại mắc vào nghiệp sát sinh. 

Ngoài ra, chim cá bán ngoài thị trường để cung ứng cho nhu cầu phóng sinh tại các đô thị thường là do người ta bắt ở các ao cá, vườn chim. Những sinh vật này có thể sẽ không thích ứng với hoàn cảnh mới. Hơn nữa, các giống chim, cá đều có thói quen của chúng. Có những loài cá phải sống trong những hoàn cảnh nhất định như chất nước, độ sâu, độ chảy. Cá sông không thể sống dưới biển và cá biển không thể sống dưới sông. Chỉ có những con chim bồ câu bị bắt để phóng sinh thì may ra ít khổ nhất, chúng chỉ bị tù túng mấy ngày, có thể là phải chịu đói khát, nhưng nếu sống sót cho đến lúc được phóng sinh mà còn đủ sức để bay thì cũng có nhiều cơ may có thể “trở về mái nhà xưa”, vì loài chim bồ câu vốn nhớ đường về, chúng sẽ có thể bay về với gia đình, sẽ được chủ nó cho ăn uống bồi bổ lại sau những ngày bị giam cầm tù tội và đói khát.

Trong tình hình như vậy, có nên phóng sinh hay không ? Chúng tôi nghĩ rằng điều này nên để quý vị tự định đoạt. Tuy nhiên, việc bắt, mua bán rồi thả, rồi bắt lại ..v..v..là không đúng với tinh thần phóng sinhPhóng sinh chỉ có ý nghĩa khi chúng ta giải thoát được con vật trong hoàn cảnh ngẫu nhiên hay thả chúng sống trong một môi trường thích hợp, tạo cho chúng có cơ hội sống dài lâu hơn. Không nhất thiết phải mang chúng đến chùa mới phóng sinh được. Chỗ nào thích hợp thì thả chúng. 

Thật ra việc phóng sinh ai cũng có thể làm, không nhất thiết phải có tiền (mua chim cá) mới thực hành được. Chỉ cần có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh, xem mọi loài chúng sinh đều bình đẳng, đều có quyền sống. Khi đi bộ trên đường thấy con giun đang giẫy giụa trước sức nóng mặt trời, chúng ta mang chúng vào nơi có đất ẩm, hay gặp con sên đang bò trên vỉa hè, chúng ta nhặt chúng đem vào bãi cỏ xanh mát. Hoặc là khi khởi tâm muốn phóng sinh, chúng ta rủ bạn bè, thân nhân, đi ăn một bữa cơm với rau đậu, như thế là chúng ta cũng đã có thể cứu dăm ba mạng tôm, cua, sò, cá, chim câu, vân vân, thế là cũng đã thực hiện hạnh phóng sinh rồi. 

Theo quy luật nhân quả, mình có lòng muốn cho chúng sinh khỏi đau đớn, giải thoát chúng sinh, thì mình cũng sẽ được khỏi đau đớn, được giải thoát. Nhưng đó chỉ là kết quả tự nhiên của những hành động từ thiện, không phải mục tiêu của sự phóng sinh trong nhà Phật. Nhà Phật phóng sinh là vì lòng từ bi. Nói như thế không có nghĩa là hành động phóng sinh chỉ đem lại ít lợi ích. Thật ra việc phóng sinh đúng cách và với Tâm Vô Sở Cầu thì sẽ có kết quả vô cùng lớn lao, là vơi đi nghiệp sát đã vướng phải trong vô lượng kiếp. 

Nguồn: Thư viện Hoa Sen

Sự Sợ Hãi và Địa Ngục

Hỏi:

Năm nay tôi đã trên sáu chục tuổi, ở cái tuổi mà hằng ngày tìm tên bạn bè trên những mục cáo phó, phân ưu trong các nhật báo và tuần báo. Biết rằng giờ phút ra đi của mình cũng chẳng còn bao xa, cho nên đêm đêm nằm trằn trọc, tôi băn khoăn không biết tương lai sau khi tắt hơi, mình sẽ về đâu. 
Thuở nhỏ, mỗi khi làm điều lỗi, tôi thường được nghe người lớn hù dọa về Thập Điện Diêm Vương, về các loại địa ngục ở dưới đất, vân vân, nhưng tôi không quan tâm. Đến nay gần đất xa trời, nhiều lúc tôi mơ hồ cảm thấy một nỗi sợ hãi mênh mông, nên gửi thư này xin thỉnh ý quý vị về vấn đề địa ngục.

Đáp:

Không riêng vị thính giả gửi là thư này, mà nhiều người trong chúng ta, dù có niềm tin về một tôn giáo nào đó, hoặc không tin thần thánh gì cả, cũng có đôi chút ấn tượng trong đầu về một cảnh giới được đặt tên là địa ngục.

Ý niệm về địa ngục được hình thành từ thời cổ xưa, xuất hiện cùng với ý niệm về ông Trời, về Thượng Đế, về các loại Thánh Thần vân vân. Hầu hết các tôn giáo đều nói đến những sự thưởng phạt sau khi chết, được thưởng thì được sinh lên thiên đường hưởng phước, bị phạt thì bị đầy xuống địa ngục chịu tội. Thời trước người ta tin là trái đất vuông, mặt đất bằng phẳng, cho nên thiên đường được giới thiệu là ở cao tít trên mây, và địa ngục ở dưới sâu trong lòng đất. Lý do để được thưởng hay bị phạt thì tùy theo luật lệ của mỗi tôn giáo quy định.

Suốt chiều dài của lịch sử loài người, hình ảnh về thiên đường và địa ngục đã giúp những bậc trưởng thượng trong các bộ lạc, làng mạc, thôn xóm, gia đình, như là một trợ huấn cụ đắc lực để răn đe con cháu khỏi làm điều sai trái.

Sau này, khi các tổ chức tôn giáo hình thành, thì vai trò thiên đường và địa ngục lại càng đắc lực hơn, trong việc tạo ấn tượng về thưởng phạt, về nỗi khiếp sợ sẽ bị đầy xuống địa ngục nếu trái lệnh, hoặc sự cứu rỗi nếu người tín đồ vâng lời, khiến cho từ trong tiềm thức, người ta tin chắc rằng cần phải có một nơi để bấu víu, để nương tựa sau khi chết, nếu không sẽ phải chịu muôn vàn khốn khổ, thiêu đốt vĩnh viễn trong địa ngục.

Có niềm tin cho là sau khi con người chết đi, linh hồn xuống tới âm phủ, thì “quỷ thần hai vai” của người ấy sẽ đem tất cả công và tội của họ tâu lên vua Diêm Vương để ông ta quyết định sự thưởng phạt, hoặc cho lên trời hưởng phước, hoặc đầy vào các loại địa ngục mà tên gọi thường là rất rùng rợn, tùy theo sáng kiến của người phát minh. 

Đạo Phật không tin chuyện quỷ thần hai vai và ông Diêm Vương nào đó lại có thể quyết định vận mạng của ai được. Nền đạo đức Phật giáo không xây dựng trên sự thưởng phạt ở thiên đường hoặc địa ngục, do các Thần Linh áp đặt, mà lấy quy luật nhân quả làm căn bản.

Tâm lý học của đạo Phật cho rằng tất cả những việc mà mỗi dòng đời tạo ra, trải dài theo cuộc hành trình trong thế giới hiện tượng tương đối này, là những hạt giống, hay còn gọi là chủng tử thiện hoặc ác, trong tương lai khi hội đủ cơ duyên, sẽ nẩy nở thành những thiện quả hoặc ác báo, đều chứa tại Thức Thứ Tám, còn gọi là Tàng Thức hoặc A Lại Da Thức, của chính dòng sinh mạng đó. Thức này là lớp Vọng, cũng mênh mông như Chân Tâm, tạm ví như làn sóng điện trong không gian.

Những chủng tử thiện hoặc ác này sẽ xuất hiện vào giây phút lâm chung, để quyết định cảnh giới tái sinh của đương sự, nhà Phật gọi là “gió Nghiệp cuốn đi tái sinh”. Một số người có kinh nghiệm về cận tử (near death experience) kể lại đại khái rằng vào cái lúc họ cảm thấy muốn ngừng thở, bỗng nhiên trước mắt nổi lên một cảnh tượng tràn ngập không gian, cả quãng đời quá khứ, những việc làm khiến cho họ rất sung sướng hoặc rất đau khổ, xuất hiện như là đồng thời. Họ cảm thấy như trong giấc mơ, như là hình ảnh của ký ức. Đối với quan điểm của nhà Phật thì đó là giây phút mà một người có thể nhìn thấy được chính cái kho chứa các nghiệp nhân, tức là Tàng Thức của mình. 

Chiếu theo thành quả tự tu, tự giác ngộ lại Bản Thể của đức Phật, người Phật tử không tin vào sự cứu rỗi do bên ngoài mang đến, mà tin vào chính mình, theo gương sáng của đức Bổn Sư. Trong đời sống, người Phật tử từng bước chuyển hóa tâm, từ xấu ác trở thành lành thiện, đó là giai đoạn chuyển hóa tương đối. Sau đó sẽ bước qua giai đoạn cốt tủy của quá trình tu chứng là “thanh tịnh hóa tâm”, vượt lên trên những khái niệm thiện và ác tương đối, chỉ còn lại tâm Từ Bi và Trí Tuệ Bình Đẳng, hóa giải tam độc Tham Sân Si, vốn là căn bản trói buộc con người vào vòng sinh tử. Từ đây dòng sinh mệnh được hoàn toàn giải phóng, đạt được mục tiêu tối cao của con đường tu Phật, là Toàn Giác.

Có câu chuyện ẩn dụ về sự tự tu, tự độ như sau:

“Trong khu vườn kia có một nhóm thiền sinh đang đứng chung quanh vị thiền sư. Góc vườn là một con cọp bị trói. Thiền sư hỏi đám học trò:
– Có ai biết cách cởi trói cho con cọp không?
Đám thiền sinh góp ý, người thì bàn “lấy tấm lưới chụp nó”, người thì bảo ”xông thuốc mê cho nó”. Cuối cùng, một thiền sinh ung dung:
– Cứ bảo người nào đã trói được nó, thì chính người đó mở trói cho nó là xong.

Câu chuyện nói lên tính chất của quy luật nhân quả, người nào tạo nhân thì người đó lãnh quả, người nào ăn thì người đó no, người nào tu hành thanh tịnh hóa tâm thì người đó giác ngộ.

Như thế về căn bản, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi, mà tin lời Phật tuyên bố khi mới thành đạo: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, và câu di huấn khi Ngài sắp nhập cảnh giới Niết Bàn: “Mọi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đuốc ở đây là đuốc Tuệ, là ngọn đèn trí tuệ mà đức Phật đã giơ cao, nay còn nằm trong kinh điển, mỗi người đều cần phải “tự học, tự tu, tự giác thành Phật”.

Tuy nhiên, trên con đường giáo hóa chúng sinh từng bước, đạo Phật đi trong nhân gian thường dùng những phương tiện đã sẵn có của người dân địa phương để truyền bá tư tưởng nhà Phật, theo tôn chỉ “tùy duyên mà bất biến”, dùng bình địa phương đựng thuốc Phật giáo, khiến cho mọi người đều được thấm nhuần tư tưởng từ bi hỷ xả mà không cảm thấy nền văn hóa truyền thống của họ bị xúc phạm. Thí dụ tượng ảnh đức Phật khi ở Ấn Độ thì gầy gò, nghiêm túc, đúng là hình ảnh người tu khổ hạnh. Sang tới Mỹ, tại tu viện Shasta trên sườn núi Shasta, nơi có trên sáu chục vị sư người Tây Phương từ các tôn giáo khác chuyển qua đạo Phật đang tu hành, thì tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lại giống hệt tượng Đức Mẹ. Trong khi đó, tượng ảnh Phật và chư Bồ Tát bên Trung Hoa thì lại mập mạp, hơi mỉm cười, đượm vẻ từ bi, cảm thông với chúng sinh, theo truyền thống hiếu khách của người Á Đông là “đem lại niềm vui cho nhau”.

Tóm lại, đạo Phật cũng nói về thiên đường và địa ngục, nhưng với ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Từ quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm, thiên đường và địa ngục dưới mắt người Phật tử chính là những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua hằng ngày. Nếu con người không chế ngự được ba thói xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi trong sự bon chen, tính toán lợi mình hại người, thì tâm hồn không được an lạc, mà phiền não triền miên, ăn không ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những bực bội bất mãn gặp phải hằng ngày, đó cũng đã được coi là cảnh giới địa ngục của tâm thức rồi.

Trong kinh Địa Tạng, chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới địa ngục. Vì “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh giới trong kinh Địa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức. Địa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Địa, là Đất Tâm. Nhà Thiền có câu “Đất Tâm nếu trống không thì mặt trời Trí Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa tâm”, khiến cho Đất Tâm trống không, thí Trí Tuệ Bình Đẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Địa Tạng đã phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi. Còn như nếu Đất Tâm mà ô nhiễm quá, thì vào giờ phút lâm chung, do nghiệp thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.

Quan điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên thế gian là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển thì tất cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm. Cho nên, đối với nhà Phật, không có cảnh giới địa ngục vĩnh viễn. Mỗi người đều có thể tự ra khỏi địa ngục bằng sự “thanh tịnh hóa tâm” của họ. Đó là niềm hy vọng về giải thoát của tất cả mọi người.

Nhà Phật có câu: “ Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”. “Buông dao” và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống ô nhiễm, bước vào con đường thực hành các phương pháp để “thanh tịnh hóa tâm” như Mật Tông, Thiền Bắc Tông, Thiền Nam Tông, Tịnh Độ Tông, vân vân …

Nói về nỗi sợ hãi thì tất cả loài người chúng ta, mà có lẽ luôn cả các loài sinh vật nữa, kể từ thời tiền sử, đều đã mang sẵn một nỗi sợ hãi mênh mông. Ngay khi vừa mới lọt lòng mẹ, đứa bé đã khóc thét lên vì sợ, tay chân quờ quạng, chới với. Nó đang được nằm trong bào thai, được bảo bọc chặt chẽ, ấm áp trong lòng mẹ nó, nay bỗng nhiên rơi tõm vào một khoảng không gian trống rỗng, nên nó thất kinh hồn vía. Rồi theo với thời gian, càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi sợ hãi, từ những nỗi sợ nhỏ nhít linh tinh như sợ bị đòn, cho tới nỗi sợ mất mát người thân yêu, mất nước, vân vân. Vì nỗi sợ hãi triền miên này mà tinh thần con người bị giam hãm, không khai phóng nổi.

Tư tưởng gia J. Krishnamurti đã trình bày trong cuốn On Fear như sau:

“Đầu tiên chúng ta hãy tự hỏi “sợ là gì” và “nỗi sợ hãi nổi lên như thế nào”?
Đối với chúng ta, bản thân từ ngữ “sợ” nghĩa là gì? Tôi đang tự hỏi “sợ là cái gì”, chứ không phải là “tôi sợ cái gì”.

Hiện tại, ngay lúc tôi đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi không sợ, chẳng có chuyện gì xẩy ra cho tôi, chẳng ai đe dọa hoặc lấy cái gì của tôi. Nhưng ngoài cái thời gian đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi còn có một lớp sâu hơn, đó là vùng ý thức hoặc vô thức, đâu đó, manh nha tới điều gì đó có thể xảy ra cho tôi trong tương lai, hoặc e ngại về một cái gì đó từ thời quá khứ đột nhiên ụp xuống đầu tôi. Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn tương lai. Thế là tôi đã chia thời gian ra thành quá khứ và tương lai. Đến đây thì sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng: “Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa đâu”, hoặc “Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ tuy là anh đã có chút đỉnh, nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu chừng ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ mất công ăn việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành người có danh vọng. Có thể anh sẽ cô đơn… ” 

Bây giờ chúng ta hãy thử xét tới cái dạng sợ hãi của chính bạn. Nhìn coi. Quan sát kỹ phản ứng của bạn đi. Bạn có thể nhìn nỗi sợ hãi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ chạy, không nẩy ra chút ý muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm chế chăng? Bạn có thể trực diện nỗi sợ đó mà không có trong tâm cái từ ngữ đã làm thức dậy nỗi sợ chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà không có từ ngữ đã đánh thức nỗi sợ chết chăng? Bản thân từ ngữ đã đem tới sự chấn động, cũng như từ ngữ “yêu” có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của chính nó, phải vậy không?

Bây giờ hãy coi có phải là những hình ảnh trong tâm trí bạn về sự chết, ký ức về biết bao nhiêu cái chết mà bạn đã nhìn thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản thân với những chuyện đã xẩy ra còn giữ trong tiềm thức đó, — phải chăng đó chính là hình ảnh đã tạo ra sự sợ hãi trong lòng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ đến chứ không phải là bạn sợ những hình tượng trong tâm đã tạo ra sự chết. Có phải là từ ngữ “chết” làm cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ ngữ hoặc ký ức là lý do để bạn sợ thì chẳng có gì đáng sợ hết ráo.

Giả dụ như hai năm trước bạn bị bệnh, ký ức về sự đau đớn, về cơn bệnh vẫn còn tồn tại trong trí nhớ, nay nó trỗi dậy nhắc nhở “Coi chừng, đừng để bị bệnh lại như lần trước nữa đấy nhé”. Thế rồi ký ức cùng với bè đảng của nó là guồng máy suy tư bèn tạo nên sự sợ hãi, mà thật ra thì chẳng có cái gì đáng để mà sợ hết ráo, vì lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.

Tư tưởng, vốn là cái luôn luôn cũ mèm, bởi vì tư tưởng thoát thai từ ký ức, mà ký ức thì dĩ nhiên là luôn luôn cũ mèm — tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn đang sợ hãi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế. Thực tế là bạn đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về sự đau ốm, vốn đã khắc ghi trong tâm trí, trỗi lên nỗi sợ “Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!”

Như thế chúng ta thấy rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hãi.”

Vậy thì, như J. Krishnamurti nói “… chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hãi”. Đạo Phật từ hai ngàn năm trăm năm trước cũng đã khuyên mọi người nên “thanh tịnh hoá tâm”, nghĩa là đừng để cho tâm chạy nhẩy như con vượn, con ngựa (tâm viên ý mã), thì sẽ được hưởng một đời sống giải thoát từng bước, rồi sẽ tới giải thoát triệt để. 

 Không cần phải đi tới đích mới được hưởng hoa trái, mà ngay khi quyết định bước lên con đường thanh tịnh hóa tâm là đã bắt đầu được hưởng kết quả, tâm hồn đã thấy thơ thới hân hoan rồi.

Có bài kệ trong kinh Phật như sau:

Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thẩy đều không
Ấy mới thật là chân sám hối.

Sám hối ở đây là “thanh tịnh hoá tâm”, làm cho “tâm tịnh”, chứ không phải là đem nải chuối tới chùa cúng Phật, hứa hẹn và cầu xin lung tung. 

Nhà Phật cho rằng con người ta vì vô minh mà tạo nghiệp, thọ báo, cũng ví như một người đang đi trong căn nhà tối. Khi tâm được tịnh rồi “Trí Tuệ Bình Đẳng tự chiếu”, thì cũng ví như bật ngọn đèn bừng sáng lên, bóng tối biến mất, màn vô minh bỗng tan rã, là lúc con người giác ngộ giải thoát vậy.

Liên Hương (ĐPK)

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Chuyển Hóa Cơn Giận

 

Chúng tôi xin lược trích trong thư quý bạn đọc gửi về Thư Viện Hoa Sen tuần qua mấy câu hỏi, và sẽ lần lượt trả lời.

Câu hỏi thứ nhất như sau:

– Tôi đã cố gắng tập giữ bình tĩnh, nhưng sao khó quá. Thí dụ, đang lái xe trên đường, có người bóp còi inh ỏi để vượt, rồi khi xe chạy ngang qua, hắn còn quay lại lăng mạ vào mặt tôi. Cơn giận làm cho tôi run lên, phải phóng xe theo để mà trả đũa. Xin hỏi rằng trong trường hợp đó, dù tâm tôi có muốn yên nhưng thân tôi phát run lên rồi, làm sao mà kiềm chế được?

Theo quan điểm của nhà Phật thì, sở dĩ mỗi người trong chúng ta có tâm tính khác nhau, đời sống sướng khổ khác nhau, đều là do ảnh hưởng từ nghiệp nhân của quá khứ cộng với môi trường sống trong hiện tại, gọi là nhân và duyên. Tuy vậy, nhà Phật cho là nhân và duyên cũng như tất cả mọi sự việc trong thế giới tương đối này, đều vô thường, không cố định, có thể học tập để chuyển hóa, hoặc tu tập đạt được tâm vô ngã, tức là liễu đạo, thì như lời thiền sư Huyền Giác nói : “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không”, nghĩa là “giác ngộ rồi, ngộ được Tánh Không rồi, thì nghiệp chướng từ xưa đến nay đều là không”. Người giác ngộ nhìn tất cả mọi sự trên thế gian đều chỉ còn là giấc mộng đêm qua, không có gì là thật nữa.

Tuy nhiên, dù chưa liễu đạo, chưa thể “nghiệp chướng bổn lai không”, nhưng mỗi người đều vẫn có thể tu tâm dưỡng tính để thay đổi dần dần hoàn cảnh sống và chuyển hóa nhân quả từ xấu trở nên tốt. Sự học tập để sửa đổi tâm tính này thì không riêng gì nhà Phật, mà các trường học của thế gian đều có thực hành trong các môn học về luân lý, đạo đức và tâm lý. Cho nên, muốn có được thói quen bình tĩnh, chúng ta cũng cần phải thực tập.

Giáo lý nhà Phật là tổng kết những kinh nghiệm thực tế mà đức Phật và các bậc hiền nhân đã kinh qua, đã thực nghiệm, viết lại để thuyết phục Phật tử dấn bước trên con đường thực tập. Giáo lý không thể thay thế sự thực tập. Các khoa học gia sáng tạo phần lý thuyết về các công trình khoa học, thí dụ cách làm cho con người có thể bước trên mặt trăng, vân vân…. Có phần lý thuyết rồi, nhưng cũng phải đem rất nhiều công sức để thực hiện chiếc phi thuyền, thí nghiệm từng chi tiết về sự sống trong không gian vân vân …, từ năm này qua năm khác, cuối cùng mới tới ngày lý thuyết thành hiện thực, loài người bước được trên mặt trăng.

Học tập phần lý thuyết suông thôi thì không thể hoàn toàn chuyển hóa được tâm. Vì thế, nhà Phật có nhiều pháp môn tu phối hợp cả tâm cùng với thân, để đạt được thành quả toàn diện.

Đạo Phật không phải là một tín ngưỡng chỉ cần có niềm tin xuông, lại càng không phải là một tôn giáo trông cậy vào thần quyền, mà là một phương pháp luyện tâm, với quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo”, và “tâm bình thì thế giới bình”. Hiểu được lý thuyết rồi thì phải thực hành, mới có thể chuyển hóa được tâm, để đạt tới cảnh giới “tâm bình thì thế giới bình”.
Đức Phật đã dạy rằng:

“Kinh sách như là ngón tay chỉ mặt trăng, kinh sách không phải là mặt trăng”.

Kinh sách, hay những bài Phật pháp trong sách báo, hoặc phát thanh đều chỉ có nhiệm vụ trình bày mục tiêu của đạo Phật về sự tu hành để giải thoát tâm ra khỏi những ràng buộc, đau khổ, từ từng phần cho tới khi Giác Ngộ, giải thoát hoàn toàn, như đức Phật.

Từ sự giác ngộ của đức Phật và các hiền giả về “nhất thiết duy tâm tạo”, “tâm tạo thiên đường và địa ngục” và “tâm bình thì thế giới bình”, vân vân, chúng ta có được những lý thuyết về sự chuyển hóa tâm, để thay đổi hoàn cảnh, môi trường sống về mặt tinh thần, từ đó dòng nghiệp thăng hoa, tạo nhân tốt hưởng quả tốt, quan hệ nhân quả chuyển qua hướng tốt, mỗi người đều tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo, giác ngộ giải thoát.

Trên con đường thực hành, dù chưa tới được đích cuối cùng là Toàn Giác như Phật (nghĩa là hoàn toàn giác ngộ), nhưng cứ mỗi bước thực tập thì tâm hành giả chuyển một bước. Cũng như võ sĩ tập luyện cơ thể, không phải một sớm một chiều mà đã có thân hình tuyệt mỹ hoặc sức khỏe bạt núi xẻ sông, nhưng mỗi ngày tập, là cơ thể lại khỏe thêm một chút.

Trong số các phương pháp chuyển tâm của nhà Phật, hành thiền là con đường đức Phật và các đệ tử đã thực tập, đã thành công, đã giác ngộ giải thoát và đã dậy lại cho đời sau, tại các trường thiền khắp nơi trên thế giới. Ngoại trừ mục tiêu cốt tủy là tu thiền để được giác ngộ, giải thoát, nó còn là một trong những pháp luyện tâm hữu hiệu nhất, để sống vui, sống khỏe, về cả thể xác lẫn tâm hồn

Nhân đây, chúng tôi xin kính gửi một bài pháp của thiền sư Soyen Shaku, trích dịch từ cuốn Zen for Americans, do học trò của ông là Daisetz Teitaro Suzuki dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh.

Thiền sư Soyen Shaku là viện trưởng hai thiền viện Engaka-Ji và Kencho-Ji, tỉnh Kamakura, nước Nhật. Vào cuối thế kỷ thứ 19, năm 1893, thiền sư đã đến nước Mỹ và thuyết trình về Thiền của Phật giáo trong Hội Nghị các Tôn Giáo tại Chicago. Đầu mùa Xuân năm 1905, thiền sư trở lại nước Mỹ và ở lại cho đến tháng Tư năm 1906 mới rời nước Mỹ để qua Âu Châu thuyết giảng.

Trong thời gian trên một năm trời lưu ngụ tại Mỹ, thiền sư Soyen Shaku thể theo lời mời của các bằng hữu, đã giảng rất nhiều thời pháp. Thiền sư nói bằng tiếng Nhật, được thông ngôn qua tiếng Anh, chủ yếu là giới thiệu kinh Tứ Thập Nhị Chương và đại cương về giáo lý nhà Phật, tại nhiều địa danh, thí dụ San Francisco, Los Angeles, Sacramento, Fresno, San Jose, Oakland, Washington, New York, Philadelphia, Boston và nhiều nơi khác nữa trong nước Mỹ. Kinh Tứ Thập Nhị Chương là kinh căn bản trong kho tàng kinh điển Phật giáo.

Cuối thế kỷ thứ 19 là thời gian các phương tiện truyền thông còn thô sơ, eo hẹp, sự tận tụy của ông đã đi khắp nơi để hoằng truyền Tuệ Đăng và giải tỏa những sự hiểu lầm đạo Phật của người Tây Phương tại Mỹ Châu và Âu Châu, đã làm thay đổi nhãn quan của nhiều người. Thuyết giảng tại bất cứ nơi nào, ông cũng đều được thính chúng nồng nhiệt tán thưởng.

Sau này, những bài giảng của ông được tiến sĩ Daisetz Teitaro Suzuki, người đệ tử mà cũng như ông, đã tận tụy đem đạo Phật từ Đông Phương trải dài qua Tây Phương dịch sang tiếng Anh. Cả hai thày trò đều coi Đông Phương và Tây Phương cùng là nhà của mình.

Sau đây là lời giảng của thiền sư Soyen Shaku:

… “ …Phật giáo không phải là một hệ thống siêu hình học, mà là một tôn giáo chú trọng thực hành hơn bất cứ điều gì khác. Đạo Phật dạy người hành giả tu tập để đạt được sự thể hiện tâm giác ngộ trong khi triết gia và lý thuyết gia thì chỉ phỏng đoán các sự kiện và rồi đưa ra những lời diễn dịch nào mà họ cảm thấy vừa ý hoặc đủ sức hấp dẫn để thuyết phục mọi người mà thôi.

Người ta thường lên án đạo Phật là thụ động, yếm thế, thiếu tính cách thúc đẩy như những tôn giáo khác. Và sự lạc hậu của các nước châu Á trên đà tiến nói chung của nhân loại, đôi khi bị người ta quy lỗi rằng do các nước này ảnh hưởng đạo Phật. Dầu sao, trước sự hiểu lầm sâu xa như thế, với một vài lời nói ở đây, tôi cũng không thể làm sáng tỏ vấn đề được.

Tuy nhiên, tôi có thể nói vắn tắt rằng, nếu có chút tính cách thụ động nào trong nền văn hóa Đông Phương, thì cũng chỉ là sự độ lượng, thờ ơ, lãnh đạm hoặc tự chế. Điều đó không phát nguồn từ đạo Phật mà là cá tính của người Đông Phương. Đạo Phật dạy người ta phải nỗ lực quán chiếu nội tâm trong tĩnh lặng, liên tục không ngưng nghỉ, để hóa giải vô minh và giác ngộ Chân Lý. Chúng ta đã thấy có biết bao nhiêu tấm gương đáng chiêm ngưỡng về sự minh triết được biểu lộ trong đời sống của các Phật tử.

Lịch sử đạo Phật đã chứng minh rằng, trong công cuộc truyền bá suối nguồn tư tưởng cao thượng đi khắp nơi,Phật giáo đã hoàn toàn tránh được sự tàn bạo và đổ máu. Nền đạo đức Phật giáo không phải là thụ động hoặc tiêu cực, chỉ vắng mặt các thói kiêu ngạo, hiếu chiến, tàn nhẫn, hẹp hòi và cuồng tín, trừ khi sự vắng mắt những tật xấu này, lại bị gọi là thụ động hoặc tiêu cực mà thôi.

Để trở thành Phật tử đúng nghĩa, trước nhất người ta phải giữ đạo đức để không phạm vào các Giới cấm mà đức Phật chế ra và đã được ứng dụng khắp nơi. Người Phật tử còn phải tích cực thực hành phương pháp quán chiếu nội tâm trong tĩnh lặng, để thấu triệt sự vận hành của tâm ý thức, ngõ hầu chuyển hóa nó. Đó là tu tập Thiền Định. Sự tu tập này sẽ trở thành thói quen, cho đến khi tâm trở nên thanh tịnh, Tuệ Giác bừng sáng, nhà Phật gọi là trực ngộ. Con đường tu hành của nhà Phật, gồm Giới, Định, và Tuệ, như là cái đỉnh ba chân, không thể thiếu chân nào.

Tu tập thiền quán sẽ đưa tâm vào trạng thái lặng lẽ, điều hòa tâm cho quân bằng, luyện thói quen sống tỉnh thức trong giây phút hiện tại, chú tâm vào những vấn đề đang xảy ra trong sự hồn nhiên. Hành trì thiền quán chẳng mất gì cả, mà lại đem đến cho người ta điều lợi rất lớn, là sẽ có được thói quen bình tĩnh, ôn hòa”.

Trên đây là lời dạy của thiền sư Soyen Shaku.

Trong chiều dài của lịch sử giảng dạy Phật pháp, ngoài những pháp Thiền do đức Phật đích thân trao truyền, như Thiền Tứ Niệm Xứ, Thiền Như Lai … vân vân…, chư Tổ Sư đã sáng tác thêm những pháp môn phương tiện để phù hợp với căn cơ của chúng sinh đương thời, thí dụ Thiền Lâm Tế, Thiền Tào Động, Thiền Khán Thoại Đầu, Thiền Chỉ Quán … vân vân …. Hoặc có những pháp tu tính chất cũng như tu Thiền, nhưng dùng tên khác, thí dụ Niệm Phật Tam Muội, Niệm Phật Thật Tướng, vân vân….

Đạo Phật dạy rằng:

“Trong một cái búng tay, đã có hàng ngàn mảnh nhỏ của ý hiện lên trong tâm, liên kết nhau di chuyển rất nhanh thành một niệm tưởng, và niệm này dứt mới có niệm khác hiện ra được, không thể hai niệm cùng song song hiện lên trong tâm được. Cũng vì tâm con người ta không thể chứa hai ý chập vào nhau, cho nên mới có thể tu hành”.

Tâm con người luôn luôn có một ý nghĩ nào đó, không thể trống rỗng, cũng như cái hố dưới trời mưa, lúc nào cũng có nước. Dù là một người rất đơn thuần, tâm vẫn luôn luôn có ý niệm trôi chảy. Điều này quý thính giả có thể thí nghiệm.

Vì tâm con người ta lúc nào cũng phải có ý niệm trôi chảy, cho nên trong các môn phái chuyển tâm, có cách “dùng một niệm dẹp vạn niệm”, đó là pháp môn Niệm danh hiệu Phật. Có câu “Niệm Phật thì không niệm chúng sinh”, tâm người niệm Phật đã bị câu Phật hiệu chấn ngự, cho nên những ý tưởng linh tinh không nhào vào được, cũng như cái hố trống thì nước ùa vào, nay dùng cái gì đó để lấp lại thì nước sẽ không thể lọt vào được.

Luyện tâm cách này là một trong các pháp môn phương tiện dễ ứng dụng, bất cứ đi đứng nằm ngồi đều thực tập được, cứ “niệm Phật thì sẽ không niệm chúng sinh”, “niệm chúng sinh” là những tạp niệm tính toán tham sân si, lúc nào cũng sẵn sàng ùa vào tâm. Ngay lúc thấy tâm mình rối beng đủ thứ suy nghĩ, hãy dùng ngay câu Phật hiệu, thí dụ Nam mô A Di Đà Phật, hoặc chỉ cần A Di Đà Phật cũng đủ, để chuyển nhiều niệm linh tinh thành một câu niệm Phật, sẽ chấm dứt được cơn giận đang bốc lên do tính chất của vọng tâm là suy diễn, càng nghĩ càng tức.

Trong trường hợp vị thính giả nêu câu hỏi, ứng dụng pháp môn phương tiện này, thì sẽ chuyển hóa được cơn giận. Nếu không bị cơn giận bùng lên đi đến chỗ xảy ra xung đột, thì có thể tránh được biết bao nhiêu hậu quả gây phiền não. Điều này quý thính giả có thể thí nghiệm.

Sau đây là câu hỏi thứ hai:

– Nghe nói về buông xả, tôi rất muốn làm theo. Nhưng trong thực tế, những người làm cho tôi ghét và những lời nói làm cho tôi phát giận, luôn luôn trong ký ức, làm sao tôi quên cho nổi để mà buông xả. Vậy có cần phải quên những điều đó để buông xả không? Nếu cần thì xin quý vị chỉ cho tôi cách để quên.

Xin thưa,

Trong đời sống, chúng ta có câu “không thể quên, nhưng có thể tha thứ”. Đối với tâm lý học Phật giáo, tất cả những chuyện đã xảy ra trong cuộc đời, đều nằm trong Tàng Thức, tức là kho chứa các chủng tử làm nhân cho quả báo ở tương lai. Chủng tử là nhân, nhưng phải có duyên, là những cơ hội để chủng tử phát triển, thì nhân mới trổ ra quả được. Nếu chuyển hóa được tâm, khiến cho duyên không có cơ hội xuất hiện, thì nhân sẽ không thể sinh ra quả. Cũng như men rượu, nếu không có duyên là cơm nếp để rắc men vào, thì mãi mãi cũng chỉ là cục bột khô, không có cơ hội để nảy ra sinh vật lên men.

Ký ức con người có cách vận hành của nó tùy theo hoàn cảnh. Bất cứ một người bình thường nào, cũng nhớ nhiều chuyện trong quá khứ, dù rất xa xôi. Nhưng sự nhớ đó không phải là hoàn toàn chính xác, mà có chọn lọc. Người ta thường nhớ những hành động tốt của bản thân, và những điều xấu của người mình ghét. Nếu có ai ghi chép lại những lời kể lể của họ trong một thời gian cách nhau, thí dụ mười năm, thì sẽ thấy hai câu chuyện không còn giống y hệt, mà điều tốt về mình thì dường như tăng thêm, đồng thời điều xấu của người họ ghét, cũng tăng thêm. Tại sao vậy? Vì mỗi lần kể lể, câu chuyện được thêm mắm dậm muối cho phù hợp ý thích của bản ngã. Nhưng nếu một thời gian không nhắc đến nữa thì câu chuyện sẽ chìm xuống dần, cho đến một lúc nào đó lại có ai khơi ra.

Không có phương pháp nào dạy người ta quên. Ngay đến những người mắc bệnh Alzheimer cũng không quên tất cả, chỉ là ký ức bị lẫn lộn mà thôi.

Nhưng không cần quên mới buông xả được, mà cần hiểu và ứng dụng sự hiểu biết về vận hành của cuộc đời.

Nhà Phật quan niệm rằng tất cả mọi sự việc trong cuộc đời đều vô thường, nghĩa là đều luôn luôn thay đổi. Tâm vô thường, lúc thì nghĩ thế này, lát sau lại nghĩ khác. Thân vô thường, đang khỏe mạnh lại phát bệnh. Không có gì vĩnh viễn tồn tại, trước sau như một.

Có câu “không thể uống cùng một ngụm nước trên một dòng sông”. Ngụm nước trước và ngụm nước sau, đã khác nhau vì dòng sông luôn luôn di chuyển. Cuộc đời cũng thế, một người vừa mới là kẻ sát nhân, khi thấy xác nạn nhân đổ xuống, tia chớp của hối hận lóe lên trong tâm, khiến hắn ta sám hối, buông bỏ dao xuống mà đi tu, xả bỏ được tất cả sự vô minh từ vô lượng kiếp, giác ngộ lại được bản thể, thành Phật. Cho nên nhà Phật mới có câu “buông dao đồ tể, tu hành thành Phật”. Tội lỗi là do vô minh, do ngu si. Giác ngộ thì thành Phật. Đạo Phật là con đường của bao dung và bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng trong sự tu hành, trong sự giác ngộ và trong sự thành Phật.

Mỗi người, không ngoại trừ ai, đều có những nỗi khổ riêng, vì vô thường là khổ. Từ vua chúa, doanh gia, tỷ phú, cho tới thứ dân bần cùng, đều khổ vì vô thường, vì có chuyện bất trắc, chuyện đau khổ có thể ập tới bất cứ lúc nào, thí dụ, yêu nhau mà bất thình lình mất nhau … vân vân, là nỗi khổ không một ai tránh thoát được.

Tất cả mọi sinh vật trên cuộc đời đều có những nỗi khổ, có những điều đáng thương xót. Nếu có thể nhìn tất cả mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời với nhãn quan đó, thì chúng ta có thể tha thứ cho người và việc mà chúng ta ghét, để mà buông xả. Buông xả là phương pháp hữu hiệu nhất để sống vui, sống khỏe, cho mình và cho mọi người.

Liên Hương
Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Cuộc đời vô thường, sự sống chỉ có mặt ngay trong giây phút hiện tại …

Nếu chúng ta nhìn kỹ lại bản thân thì sẽ thấy là dường như chúng ta ít khi thực sự sống ngay trong giây phút hiện tại, mà thường để tâm trí hồi tưởng về những việc trong quá khứ hoặc suy nghĩ, tính toán tới những chuyện sẽ xảy ra trong tương lai. Trong khi đó, đối với những người và việc trước mặt, ngay trong hiện tại, thì lại lơ là, thấy như phơn phớt ẩn hiện trước mắt, chứ chúng ta không chú tâm, không sống hết mình với giây phút hiện tại. Đôi khi người đối diện chúng ta nói, nhưng chúng ta thì lại còn đang mải nghĩ về những vấn đề nào đó của riêng mình, nên chỉ nghe thấy tiếng ồn ào mơ hồ mà không hiểu họ nói gì, đến nỗi chính người đối thoại phải hỏi:

“Ủa, đang nghĩ gì thế, có nghe tôi nói không vậy?”.

Đó là tình trạng “sống say, chết mộng”, không “thực sự sống”.

Đức Phật là vị giác ngộ. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ.

Giác ngộ cái gì?

Giác ngộ chính con người thật, bộ mặt thật từ ngàn đời trước khi chúng ta trôi lăn vào dòng sông sinh tử, bị làn sóng tâm ý thức lôi cuốn, nhận chìm vào vòng vô minh tham ái sinh diệt, tạo ra cái thế giới hiện tượng tương đối này, nó vốn là cái gì?
Nhà Phật quan niệm rằng giác ngộ được nguồn gốc của kiếp nhân sinh rồi thì mình tự giải thoát ra khỏi được sự ràng buộc của mê vọng, của vòng luân hồi sinh tử. Muốn thế, người hành giả phải hoàn toàn thanh tịnh hóa được tâm mình, chấm dứt mọi suy nghĩ mông lung, tâm viên ý mã.

Mục tiêu tối hậu là giác ngộ giải thoát hoàn toàn, nhưng giáo lý nhà Phật đã chia con đường lớn ra thành từng giai đoạn nhỏ để mọi người, tùy theo hoàn cảnh, cơ duyên, đều có thể tự mình đạt được từng bước giải thoát trong đời sống hằng ngày.

Những bước giải thoát nho nhỏ này chính là sự thực tập trong ngày, dành đôi chút thì giờ để “sống trong giây phút hiện tại”. Đó chính là những giây phút mà tâm trí con người thoát ra khỏi sự o ép căng thẳng vì những sự suy nghĩ triền miên về quá khứ và tương lai.

Những nỗi thống khổ của kiếp người có thể chia đại cương ra thành hai nhóm, thân khổ và tâm khổ. Nghèo đói, bệnh tật, vân vân, là thân khổ. Buồn rầu ghen tức, tiếc nuối, lo sợ, vân vân, là tâm khổ. Nhưng thường thì hai loại khổ này liên đới với nhau, thân khổ thì tâm cũng thấy khổ. Tuy nhiên, người mải chạy theo mê vọng quá thì sẽ có thể bị những nỗi khổ mà lẽ ra không đáng bị khổ, thí dụ nghèo đói, thất nghiệp thì lo sợ ngày mai không có cơm ăn. Nhưng nếu không nghèo đói, mà lại vẫn quá lo sợ về một tương lai sẽ nghèo đói, rồi từ đó nẩy sinh ra những sự quá lố, keo kiệt, bon chen, bần tiện khiến cho tâm trí bị o ép, không được giải thoát ngay cả những khi có thể sống thanh thản thì thật là đáng tiếc.

Nhà Phật theo con đường trung đạo. Mỗi Phật tử đều có thể áp dụng giáo lý nhà Phật vào hai giai đoạn tu tập, giai đoạn thứ nhất là ứng dụng giáo lý vào đời sống tương đối để đem lại niềm an lạc và giải thoát cho mình và cho xã hội và giai đoạn thứ hai là giai đoạn tu tập để giác ngộ giải thoát triệt để, gọi là Toàn Giác.

Trong đời sống thường nhật thì ứng dụng hai quy tắc “Không làm những điều xấu ác” và ”Siêng làm những việc tốt lành”, thực hiện được những điều này, người Phật tử tin chắc sẽ được hưởng quả báo tốt lành. Nếu đã làm toàn những điều tốt lành mà vẫn gặp những điều xấu thì người Phật tử biết rằng họ đang phải trả những món nợ cũ, những ân oán trong quá khứ mà họ đã tạo.

Và một con đường thứ hai dành cho những người muốn hoàn toàn giác ngộ, giải thoát, thì bản thân người hành giả phải tự mình thanh tịnh hóa tâm, chấm dứt dòng suy nghĩ miên man che mờ Chân Tâm, để Trí Tuệ Bát Nhã, cũng còn gọi là Phật Tánh, hoặc Chân Tâm, hiển lộ.

Đối với nhà Phật thì “quá khứ qua rồi, tương lai chưa đến”, sự sống của chúng ta chính ở ngay giây phút hiện tại này. Nhà Phật đã ví sự sống của mỗi sinh vật tiếp giáp với cuộc đời cũng như cái bánh xe lăn trên mặt đất, nó chỉ tiếp cận ngay tại khúc cong ngắn ngủi của cái bánh xe đúng vào lúc lăn trên đất mà thôi.

Cũng như mỗi sinh vật đều chỉ “sống thật” ngay tại cái hơi đang hít vào và thở ra, hơi thở trước thì đã chấm dứt, hơi thở sau thì chưa xuất hiện — và có thể sẽ không bao giờ xuất hiện, nếu đương sự thở ra mà không hít vào nữa, thì cuộc đời đã chấm dứt rồi. Cho nên chỉ có giây phút hiện tại là quan trọng mà thôi.

Do đó, đức Phật dạy rất nhiều pháp môn để cho đệ tử nhà Phật tu tập, ngõ hầu đạt được khả năng nhận biết được khi tâm ý thức của mình hoạt động miên man, lăng xăng, nhảy nhót từ chuyện này qua chuyện khác, từ quá khứ chạy qua tương lai, như con vượn chuyền cành, như con ngựa lồng phi nước đại. Nhận biết được để mà lập tức chấm dứt dòng thường lưu suy tưởng, đem tâm trở về hiện tại, đó là những pháp môn tu như Quán Niệm Hơi Thở, Tứ Niệm Xứ, Thiền Tông, Thiền Minh Sát Tuệ, Niệm Phật, vân vân . . .

Trong bài kinh Nhất Dạ Hiền Giả, đức Phật dạy:

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,

Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,

Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.

Mải mê với quá khứ và tương lai, chúng ta quên mất hiện tại. Cũng như câu chuyện ẩn dụ về một người bị cọp đuổi, anh ta phóng mình chạy, không kịp coi trước coi sau, lọt ngay xuống một cái giếng khô bỏ hoang. May thay, anh quơ tay chụp vội được cái rễ cây cổ thụ thòng xuống thành giếng. Bám chặt rễ cây, anh nhìn lên miệng giếng, thất kinh hồn vía khi thấy hai con chuột trắng và đen đang gặm rễ cây. Trong lúc tuyệt vọng, anh nhìn thấy một chùm nho đong đưa trước mặt. Vừa đói vừa khát, chùm nho đối với anh bây giờ chính là nguồn tiếp nối sự sống, anh vươn cổ tới gặm một trái, ôi mới ngon ngọt mát mẻ làm sao!

Có nhiều lối giải thích câu chuyện và pháp môn Tổ Sư Thiền cũng dùng câu chuyện này làm một công án.

Nhưng nếu giải thích theo tinh thần đề tài kỳ này: “Cuộc đời thì vô thường, đầy bất trắc, sự sống chỉ có mặt ngay trong giây phút hiện tại” thì rõ ràng đối với anh chàng này, nghĩ về quá khứ giầu sang hoặc tương lai huy hoàng đều không ích lợi gì nữa, chỉ có quả nho trong hiện tại là giúp cho anh sống còn mà thôi. Cọp rượt dụ cho những bươi chải trong cuộc đời, lọt xuống giếng dụ cho những hiểm nguy mà con người thường gặp, chuột trắng và đen dụ cho ngày và đêm cứ lẳng lặng gặm mòn dần đời sống của kiếp nhân sinh và cái rễ cây sẽ bị gặm đứt bất cứ lúc nào là dụ cho vô thường đến bất chợt, không ai có thể biết trước.

Cuộc đời thì vô thường, không có gì là bảo đảm chắc chắn cho tương lai, tai họa do thiên nhiên giáng xuống ít người biết trước, và ngay như có biết trước cũng ít người thoát khỏi bị ảnh hưởng.

Vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, trong số gần hai trăm ngàn nạn nhân sóng thần bên Á Châu, có biết bao nhiêu người ra đi không về, chết tức tủi trong buổi sáng hôm đó, để lại cho thân nhân niềm tiếc nuối khôn nguôi vì bản thân đã “mải mê suy nghĩ về quá khứ và tương lai”, không ngẩng lên nhìn người thân của mình, nở một nụ cười thân ái chia tay, dù là chia tay một lát hay là chia tay lần cuối cùng, vĩnh viễn.

Không riêng nhà Phật nói về vô thường, văn hào Pháp Alexandre Dumas cũng căn dặn: “Mỗi ngày nên nghĩ đến sự chết một lần”. Để làm gì? Để nhắc chúng ta về lẽ vô thường.

Trong đời sống tương đối, không có cái gì vĩnh cửu, tất cả đều trong vòng “sinh, trụ, dị, diệt”, có nghĩa là mỗi sự vật đều xuất hiện, có mặt một thời gian, biến đổi dần, rồi chấm dứt, hoặc là chết, hoặc là tan vỡ. Đôi khi, có những sự vật không kịp đi đủ chu kỳ, sự chết hoặc tan vỡ đến bất thình lình, quá mau, khiến cho không ai biết trước được thời điểm biến mất của nó.

Vậy mà chúng ta lãng quên đi, cứ tưởng rằng những người thân kia sẽ hiện hữu mãi mãi với chúng ta, cho nên chúng ta không tiếc những phút giây hiện tại, có thể là những giây phút cuối cùng trong cuộc đời mà họ và chúng ta có nhau. Chúng ta lơ là, không “sống thực sự ” với họ trong lúc còn có thể, để rồi đây nếu chẳng may vô thường ập đến, thì lúc đó chúng ta có tiếc nuối cũng đã quá muộn màng.

Vậy thì hôm 26 tháng 12 năm 2004 đó, trong khi cuộc đời của cả thế giới đang trôi chảy, một ngày như mọi ngày, thản nhiên bình lặng, người nào việc nấy, thì bỗng nhiên thiên tai giáng xuống, trong vòng giây lát, một cơn sóng lớn như trái núi bằng nước ầm ầm đánh ập vào một miền bờ biển Á Châu, đập tan cả một vùng nhà cửa mênh mông vốn là vùng nghỉ mát trù phú, giết chết trên hai trăm ngàn người.

Một bài báo kể lại:

“Hai tuần lễ trước, phần lớn chúng ta không hề biết đến từ ngữ tsunami có nghĩa là gì, cứ tưởng nó cũng có nghĩa hiền lành như là sushi hoặc tempura. Nhưng vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, cả thế giới mới biết cái nghĩa thật sự kinh hoàng của nó, là nhà tan cửa nát, người và vật suốt một giải bờ biển châu Á chết trong vòng giây phút.

Từ một mẩu phim video tài tử được chiếu trên màn ảnh Internet, chúng ta thấy cảnh mọi người đứng trên bờ biển vui vẻ ngắm núi nước cuồn cuộn đánh vào bờ, chỉ có vài người nhận ra được sự nguy hiểm. Nhưng đã quá trễ, núi sóng trườn lên mình họ, phăng phăng cuốn đi tất cả, từ lâu đài dinh thự cho đến xe cộ, làm tan nát biết bao nhiêu gia đình, bao nhiêu cộng đồng, hình ảnh đau thương của những nạn nhân gây xúc động đến tận đáy lòng của mọi người trên thế giới. Tai nạn xảy ra chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, vừa bằng thời gian uống một chén trà.

Vào cái ngày định mạng đó,, Tilly Smith – một cháu bé gái 10 tuổi người Anh – đang đứng trên bờ biển Maikhao thuộc tỉnh Phuket, Thái Lan. Cả gia đình cháu đang vui vẻ thưởng thức cảnh sóng ngoài khơi cuồn cuồn nhồi và khởi sự bung ra.

Những người lớn thấy lạ thì chăm chú nhìn một cách tò mò. Nhưng cháu Tilly thì sợ điếng đến tê dại cả người, hét lên thất thanh:

– Chúng ta phải chạy ra khỏi bờ biển ngay lập tức, mẹ ơi, con sợ rằng đây sẽ là tsunami!

Đám người lớn ngẩn ra tỏ vẻ không hiểu cho đến khi Tilly hét thêm một từ ngữ thần diệu ngắn gọn:

– Một cơn sóng lớn khủng khiếp!

Lời cảnh báo của em được truyền đi như lửa cháy rừng. Trong giây phút, cả bãi biển bỗng vắng ngắt. Nhờ thế, vùng Maikhao trở thành một trong số rất ít nơi thoát được cảnh người chết hoặc thương tích nặng nề.

Mẹ cô bé kể lại:

“Nghe con tôi la thất thanh, tôi chạy vắt giò lên cổ đến tối đa để thoát ra khỏi bãi biển, một mạch về khách sạn, phóng vội lên lầu vì nghĩ rằng nơi đó an toàn. Mấy phút sau, sóng biển đánh thốc vào ngay bãi biển đó và xóa tan tất cả mọi thứ trên đường sóng thần lướt qua. Thật là một quang cảnh kinh hoàng và tôi rất hãnh diện rằng con gái tôi đã biết để mà báo nguy cho mọi người.

Cũng là tình cờ may mắn mà Tilly có dịp biết được đó là tsunami. Vì cháu vừa mới được học về động đất ngay trước khi đi du lịch, kiến thức còn nóng hổi trong đầu, em đã cứu được biết bao nhiêu người”..

Trên đây là một trong số hiếm hoi những người chạy thoát lưỡi hái của tử thần. Ngoài ra, những hoàn cảnh thương tâm làm tê điếng lòng người thì đầy dẫy, xuất hiện ngay trong buổi sáng ngày hôm sau, 27 tháng 12 năm 2004, khi ánh mặt trời ló dạng thì cũng là lúc sự thật kinh hoàng phơi bày trước mắt.

Đó đây, những người mẹ thất thần đi tìm con, lật lên từng cái xác, từng cái xác mà khi dòng nước rút lui đã bỏ lại trên bãi cát. Tiếng những người mẹ khóc gào thảm thiết, đó đây còn văng vẳng:

– Con ơi, con ơi, con đâu rồi, con ơi, …

Và những gương mặt chai đá tuyệt vọng của những người cha nhẫn nại mò mẫm trong những đống xác đã trương phình, mùi hôi xông lên nồng nặc để tìm đứa con thân yêu bé nhỏ từ nay xa cách ngàn đời.

Không ai dám nhìn vào đôi mắt bi thương tuyệt vọng của những người mẹ, những người cha tội nghiệp.

Trên màn ảnh Internet, hình cháu bé Sophia Michl mặt mũi xây xát, trầy trụa với cái nhìn không hồn, ở dưới là lời ghi chú:

“Cháu bé trong hình không còn nhớ bất cứ điều gì, chỉ nói một câu duy nhất “Cháu muốn cha mẹ”.

Sau này, nhờ tấm hình, bạn của cha cháu tìm tới lãnh cháu về, nhưng cha mẹ cháu đã lìa bỏ cháu vĩnh viễn, không bao giờ còn trở lại như niềm mơ ước của cháu.

Cũng đến từ nước Đức xa xôi như cháu Sophia Michl, cháu bé Tom 4 tuổi được đưa trở về Frankfurt để gặp lại ông bà. Cha cháu đã mất tích nhưng mẹ cháu còn sống với đầy vết thương cả thể xác và tâm hồn. Ít nhất, cháu Tom còn đỡ khổ hơn Sophia, còn niềm hy vọng có ngày gặp lại mẹ cháu.

Trong một ngôi chùa ở Batapola, Tích Lan, cháu Sujeewa Samarasingha, một cháu bé có cha mẹ, gia đình khá giả, có nhà cao cửa rộng, có quần áo đẹp đẽ, bỗng nhiên một buổi sớm mai, cháu mất tất cả, trở thành một trẻ mồ côi, được các nhà sư Phật giáo đem về sống tạm trong chùa, được nuôi bằng lòng hảo tâm của các thí chủ bố thí vật thực. Cháu kể lại:

– “Tất cả gia đình cháu đều biến mất hết, nhà cửa bị phá xập, quần áo bị cuốn đi. Chúng cháu buồn quá …”

Cháu Sanga, 12 tuổi, tiếp lời:

– “Khi nước đánh vào, cháu sợ quá, chỉ còn biết chạy một mạch. Tất cả những gì trong nhà cháu đều đã bị cuốn đi hết sạch …”

Bốn chục cháu chen chúc trong một phòng, những đứa bé này tuy bất hạnh nhưng cũng còn chưa đến nỗi xuống tận đáy địa ngục. Rất nhiều cháu bé khác đã rơi vào những tình trạng khốn khổ hơn. Trong tai nạn sóng thần này, trẻ em thật là đáng thương. Những cháu nhỏ thì vì chạy chậm nên bị nước cuốn, trông những cái xác nhỏ xíu trương phềnh nằm còng queo trên bãi biển để gia đình nhận diện, nếu Trời có mắt thì cũng phải nhỏ xuống giọt lệ thương cảm.

Về trường hợp những cháu sống sót nhưng đã mất hết cha me, nếu may mắn thì gặp được các nhà hảo tâm hoặc nhân viên những cơ sở từ thiện lượm về cho tạm trú để chờ ổn định. Còn một số không may, bị những kẻ bất lương nhặt được, đem về các nơi xa xôi nuôi để làm nô lệ.

Trong vùng đất thiên tai giáng xuống tróc tận gốc như vậy, khó có thể biết cháu nào đã chết trong biển nước và cháu nào đã bị cuốn vào những vũng lầy tội ác của xã hội. Vì tuổi còn nhỏ, các cháu sẽ không thể làm gì để tự cứu, rồi một mai thời gian qua đi, ký ức mơ hồ của các cháu sẽ xóa sạch nguồn gốc vốn hiền lành lương thiện, mà chỉ còn biết cái xã hội đen, nơi các cháu lớn lên. Cha mẹ các cháu thì đã qua đời trong tai nạn, không còn cơ hội để cứu những đứa con thân yêu ra khỏi chốn bùn lầy.

Nhà Phật có lời khuyên như sau:

Ngày hôm nay đã qua đi
Mạng sống đã thu ngắn lại
Như cá trong chậu thủy tinh
Dưới đáy có một lỗ nhỏ
Mỗi ngày rơi một giọt nước
Sống tối đa một trăm năm
Nhưng vô thường bỗng đến thăm
Cái chậu vỡ thành từng mảnh
Con cá giẫy giụa dưới đất
Rồi mắt nhắm lại, im lìm.

Đại chúng,
Hãy nhớ đời người lâu nhất
Cũng chỉ một trăm năm thôi
Nhưng nếu vô thường đến gấp
Thì cuộc đời chấm dứt ngay
Cơ duyên gặp được Phật pháp
Hãy nên tu tập đêm ngày
Như lửa cháy đầu, tinh tấn
Một đời giải thoát mới hay

Liên Hương
Nguồn: thuvienhoasen online

 

 

.

 

Có ai “ăn trộm Pháp” không ?

Có vị sư bà trụ trì chùa kia dạy rằng:

– “Chỉ được học Pháp từ chư Tăng và chư Ni, không được học Pháp từ cư sĩ. Chư Tăng Ni mới là thày dạy chính thống, cư sĩ không có tư cách giảng Pháp, họ chỉ là những kẻ ăn trộm Pháp, ai nghe họ giảng sẽ bị đọa địa ngục”.   

Tôi là một Phật tử đứng ngoài cổng chùa. Tại sao không vào chùa mà lại đứng ngoài? Nếu người hỏi mà là người giầu có thì sẽ không hiểu nỗi khổ tâm của tôi đâu. Cũng như ông vua quen sống sung sướng, khi nghe thấy nói rằng dân nghèo đói lắm, bèn hỏi:

– “Sao dân ngu thế, đói thì sao không nấu cháo thịt mà ăn?”.

Nếu quí vị tiền rừng bạc biển mà nghe tôi nói rằng vì nghèo nên không dám đến chùa thì quí vị sẽ rất ngây thơ, trả lời:

– “Sao “chấp” thế. Cửa chùa từ bi, đâu có phân biệt giầu nghèo!”

Những người nghèo họ có cái bén nhậy, cái mặc cảm và cái “tủi thân” của họ. Chính tai tôi đã nghe lời dè bỉu của một bà kia sau khi nhận tiền cúng dường của một Phật tử khác, bà nói nhỏ:

-“Ui da! Cúng được năm đồng bạc! Ai cũng thế này thì có mà dẹp chùa!

Bản thân tôi, khi cầm tờ “Liệt kê tên và số tiền góp” chuyển ngang qua, tôi cũng rất sượng sùng mà moi từ túi ra số tiền khiêm tốn, dù sự đóng góp này cũng đã là một cố gắng. Tôi cũng rất thông cảm với nhà chùa, cần tiền trả bills, nhưng tôi cũng lại thắc mắc rằng tại sao phải làm chùa “càng ngày càng to”, trong khi Phật tử thì ít, chùa thì nhiều, Phật tử chùa này mà sang chùa khác lễ lạy, thọ bát quan trai, thì bị thầy nói mát mẻ:

-“Sao không đi “chùa nhà” mà đi “chùa người ta”?

Nhưng trong cái rủi, luôn luôn có cái may tiềm ẩn. Tôi tin sâu nhân quả, nên tin rằng tôi có duyên lành với đạo Phật. Nhờ không có phương tiện tốt để đi chùa, nên tôi lại có được sự khách quan, không bị tinh thần bè phái phe nhóm “chùa mình”, “chùa người”, chi phối, không bị ràng buộc vào hàng ngũ đệ tử riêng của thầy này thầy nọ, không bị tật xấu tôn sùng thần tượng che mờ mắt, nên tôi lại được tự do, thanh thản bơi lội trong rừng kinh sách, hưởng nhiều mùi vị thơm ngon qua dòng sữa chánh pháp trực tiếp từ kinh điển của nhà Phật. Khi đọc sách, tôi không để ý đến tên và hào quang của tác giả, không để ý đến vị trí tu sĩ hay cư sĩ của họ, vì tôi đã thấm nhuần lời dạy của Ðức Bổn Sư Từ Phụ:

… “Y pháp bất y nhân” …

… “Bất cứ giáo lý nào ngươi có thể quả quyết rằng chúng đưa tới diệt đam mê chứ không đưa tới đam mê, tới siêu thoát chứ không ràng buộc, tới giảm trừ của cải thế tục chứ không tới tích lũy của cải, tới thanh đạm chứ không tới thèm muốn, tới an lạc chứ không tới phiền não, tới minh mẫn chứ không tới u mê, tới hân hoan với thiện pháp chứ không tới sung sướng với ác pháp, thì với những giáo lý đó, ngươi có thể quả quyết rằng: “Ðó chính là Giới, đó chính là Luật, đó chính là Huấn thị của Ðức Thế Tôn“…

Dùng lời dạy kể trên chiếu qua kinh sách, tôi tránh được sự hoa mắt vì hào quang của thần tượng. Trong số những bậc thầy hàm thụ của tôi, mà tôi được học qua sách và băng giảng của chư vị, có cả tu sĩ và cư sĩ. Một trong những cư sĩ mà tôi rất mang ơn là cụ Ðoàn Trung Còn. Cụ soạn bộ Phật Học Từ Ðiển trên 2000 trang, có thích nghĩa bằng cả 4 thứ chữ, chữ Phạn, chữ Nho, chữ Pháp và chữ Việt, cuốn này là một trong những hải đăng của tôi trên con đường mò mẫm trong biển Phật học.

Trong cuốn Tăng Ðồ Nhà Phật in năm 1942, cụ viết những lời tâm huyết khi giải thích các bài Kệ hằng ngày của tăng ni như sau:

… “Ðọc qua những Kệ này, dẫu không đứng về phương diện tôn giáo, mà đứng về phương diện khảo cứu, cũng thấy rằng Sư đạo Phật thật là một hạng người thanh cao, từ hòa, ái mẫn, bao giờ trong sự lợi ích của mình cũng đoái tưởng đến mọi người và vạn vật, hằng xét nghĩ và cầu nguyện cho tất cả chúng sinh. Nói cho phải, nhà Sư đạo Phật vì đồng loại, vì chúng sinh mà sống còn, mà tấn hóa chứ không phải vì mình. Thật là một cuộc đời đầy sự từ bi, bác ái, hy vọng và khiêm tốn….”…

Ðây là lời chân thành của một cư sĩ ca ngợi đời sống cao thượng của chư vị tu sĩ. Tiếc thay dẫu vậy, theo lời bà Tu Sĩ kia, thì cụ cũng chỉ đứng trong hàng ngũ “ăn trộm Pháp” mà thôi.

Nhìn bằng con mắt của bà Sư này thì hàng ngũ “ăn trộm Pháp” đông lắm. Tôi chỉ xin liệt kê vài trường hợp điển hình mà thôi. Ở Ấn Ðộ, ngoài hai cư sĩ danh tiếng Duy Ma Cật và Thắng Man Phu Nhân ra (vì có thể bị bác bỏ rằng hai vị này không có trong lịch sử Ấn Ðộ) thì vua A Dục đứng ở đầu sổ, bên Trung Quốc có Lương Võ Ðế và con là Thái Tử Lương Chiêu Minh, bên Nhật có Thánh Ðức Thái Tử, Tây Phương có Ðại Tá Olcott tận tụy cả đời tranh đấu cho Phật Giáo, viết sách để phổ biến Phật pháp và chính ông là người sáng chế ra lá cờ Phật Giáo, ngoài ra còn có Bác sĩ D.T. Suzuki từ Nhật qua giảng kinh, thuyết pháp, viết sách, đem hàng vạn người trở lại Ðạo Phật, bên Việt Nam có Vua Trần Thái Tôn, tác giả nhiều bộ sách dạy về đường lối tu trì, thời hiện đại có các cụ Lê Ðình Thám, Ðoàn Trung Còn, Mai Thọ Truyền vân …vân…

Ðạo Phật là con đường đi từ Từ Bi, Trí Tuệ, tiến tới giác ngộ, giải thoát hoàn toàn khỏi vòng luân hồi sinh tử bị chi phối bởi Nghiệp. Trưởng Tử Như Lai được đức Phật giao phó nhiệm vụ cầm đuốc soi đường cho chúng sinh, nên dành nhiều thì giờ nghiên cứu kinh điển, tu hành Lục Ðộ Ba La Mật, thì mới đủ khả năng giảng dạy chánh pháp. Sống trong ánh hào quang của Ðức Thế Tôn, chư vị nên mở rộng tâm ra để mà tiến bước trên con đường tự giác, giác tha, thường nên tự xét xem có xứng đáng với lời ca ngợi của cụ Ðoàn Trung Còn hay không, thường nên tự nhắc nhở để tránh phạm vào lỗi “lạm nhận sự cung kính của Cư sĩ” do không làm tròn nhiệm vụ bậc thầy.

Thầy đây là thầy dẫn đường cho chúng sinh ra khỏi sinh tử luân hồi, chứ không phải là thầy cúng, chỉ cần giỏi khua chuông gõ mõ ê a là đủ! Nếu có tâm từ bi, thương chúng sinh như ruột thịt, hãy nghĩ đến họ đang lần mò trong đêm tối của vô minh, phải nên tận tụy tìm mọi phương tiện thiện xảo, dạy cho họ biết tu hành để ra khỏi nhà lửa.

Không phải tu hành chỉ là đến chùa cúng tiền, làm Phật sự không phải chỉ là cầu siêu cầu an! Nếu thấy có người đem giáo pháp của đức Phật truyền bá cho chúng sinh thì nên đến nghe coi họ nói đúng hay sai, họ nói đúng thì nên tùy hỷ, mừng rằng có thêm người hiểu được đạo Pháp, họ nói sai thì tìm cách chỉ dẫn cho họ đi vào chính đạo, khuyên họ không nên làm hại chúng sinh, dạy sai, khiến chúng sinh lạc đường trở lại bản thể, bởi vì ngay chính người thuyết pháp cư sĩ đó thì cũng là một chúng sinh, Trưởng Tử Như Lai cũng có nhiệm vụ giúp đỡ nếu họ lạc đường. Phật tử cư sĩ là con của Phật. Sư là thầy. Trưởng Tử Như Lai là anh lớn của cư sĩ. Là thầy, là anh lớn của cư sĩ, nên cư sĩ Phật tử phải cung kính cúng dường. Anh lớn phải đem ánh sáng của đạo Giác ngộ rọi vào vọng tâm vô minh của các em, đưa các em lên bờ giác ngộ. Cho nên Tăng Ni mới được tôn là một trong Tam Bảo, hàng ngũ tôn quý. Rất nhiều vị trong hàng ngũ tôn quí đó đã làm tròn nhiệm vụ Ðức Phật giao phó, tinh tấn tu hành để Tự Giác, tận tụy dạy dỗ chúng sinh để Giác Tha, quyết đi đến Giác Hạnh viên mãn. 

Ðạo Phật có nghĩa là đạo Giác Ngộ. Giác ngộ rằng từ một niệm vô minh bất giác mà duyên theo hành nghiệp, cuốn trôi vào vòng sinh tử luân hồi, do chấp rằng có cái thân này và thế giới vật chất trước mặt là thực thể, bám chặt vào tư tưởng đó, nảy ra tham sân si rồi tạo nghiệp, trả quả liên tục trong mê hồn trận, nếu không nhờ có ánh sáng của đạo Giác Ngộ chiếu vào, thì sẽ không có ngày chấm dứt. Dù ánh sáng giác ngộ chiếu vào nhưng chúng ta phải vâng theo lời Ðức Bổn Sư mà tu tập, xả bỏ những vướng mắc, của cải, từ vật chất đến tinh thần, đi đến tâm hoàn toàn thanh tịnh, mới tới được bờ Trí Huệ giải thoát. Cho nên bước đầu của đường tu là bước Bố Thí, để xả bỏ mọi tham luyến, rồi đến tránh không làm điều ác là Trì Giới, không nổi tham sân si giành giật với người khác là Nhẫn Nhục, siêng năng tu tập là Tinh Tấn, thanh tịnh hóa tâm bằng các pháp môn Tọa Thiền, Niệm Phật, Trì Chú, Tụng Kinh, tâm sẽ lắng xuống, gạn lọc ô nhiễm, trở nên an tịnh là Thiền Ðịnh, đây là cảnh giới Trí Huệ, giải thoát.

Làm tất cả những điều kể trên mà không tự hào là có ta đang tu, đang chứng, thì đó là Lục Ðộ Ba Lạ Mật.

Tại sao cửa đầu tiên phải là Bố Thí? Lý do là chính vì lòng tham lam thu góp, nắm giữ của cải, tình cảm… vân.. vân.. của riêng mình mà chúng ta đã tạo nên nghiệp chướng liên miên từ vô lượng kiếp. Nay muốn chấm dứt dòng luân hồi bị chi phối vì nghiệp báo ấy thì phải lập tức xả bỏ mọi vướng mắc kể trên. Cho nên, thời Ðức Phật còn tại thế, chư tăng ni chưa có chùa riêng, ban ngày tọa thiền và đêm ngủ đều tại gốc cây, nhưng Ngài không cho chư đệ tử ngủ ba đêm liền dưới cùng một gốc cây, vì sợ chư vị nảy sinh ra ý tưởng sở hữu, thu vén sao cho tiện nghi, đẹp đẽ làm nơi ở của TA. Ðức Phật là bậc Ðại Giác. Ngài biết rằng nếu đã thiết lập nên cái “của TA” thì từ đó sẽ nảy sinh ra muôn ngàn chướng ngại cho con đường tu hành.

Ðã là Tu Sĩ Phật giáo thì tâm từ bi phải tỏa rộng, được Phật tử cung kính thì phải học tập, tu hành cho có khả năng để bố thí Pháp, vâng theo lời Ðức Phật dạy mà soi đường cho chúng sinh, kẻo mà vướng vào cái gọi là “hư tiêu tín thí”. Nếu như vì lý do nào đó mà không giảng pháp, lại có các cư sĩ đứng ra chỉ dẫn cho nhau, nên xem nếu họ có đủ khả năng thì tùy hỉ khen ngợi, giúp họ phương tiện để hoằng truyền đạo Giác Ngộ cho lan rộng khắp thế giới, để mọi người đều hân hoan bơi lội trong biển Phật Pháp, thoát được địa ngục vô minh tham sân si, không nên tự coi mình như là con thừa tự được hưởng gia tài, đem kinh điển đi làm “nhãn hiệu trình tòa” để giành độc quyền, rồi dọa dẫm Phật tử rằng họ nghe pháp của cư sĩ giảng là bất hợp pháp, sẽ bị tội đồng lõa, dọa dẫm đủ loại địa ngục! 

Cũng chỉ vì cái quan niệm mê tín dị đoan, lưu truyền từ thời phong kiến, phân chia ra mọi loại giai cấp, khiến cho một số người lợi dụng tình thế tự phong thần cho chính mình, tạo nên bức màn huyền bí, làm cho biết bao nhiêu người chỉ vì không dám thắc mắc đối với Tăng Ni, sợ đọa địa ngục, mà một “sư cô” (sau này còn tự “tôn xưng” là ” Vô Thượng Sư T.H.”), vốn gốc là đệ tử của mấy vị Ðại Sư, mới có được cái “dù” quyền lực thần bí mà lôi tuốt hàng ngàn đầu óc mê muội vì sợ sệt vào thẳng “Ðịa Ngục vô minh tại thế”.

Pháp thường hằng và mênh mông khắp nơi. Tâm được giải thoát khỏi Tam Ðộc là hội nhập được Chánh Pháp, rồi đem lòng từ bi san sẻ với tha nhân, cùng nhau tu hành tự giác giác tha cho đến giác hạnh viên mãn thì sẽ hòa vào với Pháp là Bản Thể Chân Tâm. Không nên hẹp hòi đem Pháp bỏ vào lọ, trình tòa để làm của riêng, tự cho mình là dòng chính thống được độc quyền khai thác, không mở rộng tâm ra, tối ngày bo bo giữ của, sợ người này người kia “ăn trộm Pháp”, thì sẽ chỉ là người coi kho đếm tiền, không có cơ hội được thấm nhuần mùi vị giải thoát.

Nguồn hào quang rực rỡ của Ðại Giải Thoát mà lại bị những người tự nhận là có độc quyền muốn thuyết pháp cho ai, muốn thu, phát lúc nào, hoặc riêng tặng ai tùy ý mình, muốn đem nhốt Pháp vào lọ biến thành của gia bảo, cha truyền con nối cho riêng tầng lớp mình, thật là Ðại Khôi Hài !!!

Liên Hương (ĐPK)

(11-27-99)

Tạo Nghiệp và Nhận Lại Quả Báo

Trong kho tàng chuyện ẩn dụ của Phật Giáo, có câu chuyện “Bốn Bà Vợ”. Chuyện kể rằng, có một ông trưởng giả kia, sinh thời có bốn bà vợ.

Bà vợ Cả vốn được cha mẹ đôi bên hứa hẹn với nhau từ khi cả hai đứa nhỏ đều chưa ra đời. Sau này cả hai lớn lên, khi cha mẹ đôi bên tổ chức đám cưới cho đôi trẻ, cả hai đều chưa biết mặt nhau, cho nên đôi vợ chồng trẻ sống chung mà không có sự cảm thông, hiểu biết về nhau, chỉ như hai cái bóng bên nhau qua ngày, người chồng không thèm biết đến sự có mặt của người vợ lặng lẽ đi bên cuộc đời mình, như một vật phụ thuộc trong sự âm u tối tăm của căn nhà cổ.

Rồi người chồng ra ngoài đời làm ăn buôn bán dần dần khấm khá, ông ta bèn cưới thêm một bà vợ nữa. Từ khi có bà Hai, trong nhà luôn luôn vui vẻ với tiếng cười rộn rã, “rủng rẻng” của bà. Ông trò truyện, đùa giỡn, tối ngày cùng với bà Hai đầu gối tay ấp, tưởng như mối tình gắn bó keo sơn không có gì lay chuyển nổi.

Thế nhưng, lòng ham muốn của con người cũng giống như câu chuyện bó cỏ mà người xà ích dùng để dụ con ngựa vươn cổ vói về phía trước, không bao giờ đạt được tới đích, ông trưởng giả tối ngày đếm tiền nghe tiếng “rủng rẻng” mãi cũng thấy chán, bèn quyết định cưới thêm bà vợ nữa cho nhà cửa sầm uất vui vẻ. Thế là bà Hai đành phải chia sẻ tình yêu để ông chồng mời bà Ba “uy nghi” về nhà.

Có bà Ba rồi ông mới thấy nếu chỉ quanh quẩn trong nhà thì cũng không có gì là thú vị, chẳng ai biết đến sự giầu có sang trọng của ông, cho nên ông quyết định cưới thêm một bà vợ thứ Tư, một bà “rất sang”, mọi người trông thấy là tấm tắc ngợi khen sự cao sang của gia đình ông.

Ngủ quên trên danh vọng, vinh hoa phú quý tràn ngập, với tài kinh doanh và sự lạnh lùng tàn nhẫn trong thương trường, tiền bạc cuồn cuộn vào nhà ông như thác đổ, ông say sưa trên men chiến thắng với danh hiệu Anh Hai Chi Tiền trong những cuộc vui trà đình tửu quán. Từ trên đỉnh cao của danh vọng và quyền thế, ông quên hẳn mặt trái của xã hội, cái mặt dàn trải đầy dẫy những hoàn cảnh khổ đau đói khát, cơm không có mà ăn, co ro trong manh áo rách cho qua đêm Đông rét mướt.

Rồi một ngày kia, ông ngã bệnh. Cái tâm hồn cạn tầu ráo máng ẩn trong cái cơ thể bệnh hoạn dầm dề, kết quả tàn khốc của những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, đã mau chóng đưa ông tới ngưỡng cửa của Tử Thần.

Trong giờ phút thiêng liêng, gần đất xa trời, ông quyến luyến nhìn bà vợ thứ tư, tha thiết hỏi:

– Ta sắp chết rồi, em là người ta thương yêu nhất, em có đi theo ta không?

Bà Tư nức nở:

– Em thương chàng lắm, nhưng em không thể đi theo chàng sang bên kia thế giới, mà chỉ có thể theo chàng đến mộ mà thôi.

Quay qua bà Ba, ông hỏi:

– Còn em thì sao? Ta rước em về đã lâu, ngày ngày đều chiêm ngưỡng, chăm sóc, o bế, tô điểm cho em đẹp đẽ với đời. Nay ta ra đi, em có đi theo ta không?

Bà Ba nghẹn ngào:

– Em không thể chết theo chàng, nhưng em sẽ tiễn chàng tới tận góc phố, cho đến khi quan tài của chàng khuất bóng.

Thất vọng, ông thở dài hỏi bà Hai:

– Vợ chồng đầu gối tay ấp hàng bao nhiêu năm rồi, ngày đêm ta trân quý em, ta cất giữ em kỹ lưỡng, nay em có đi theo ta không?

Bà Hai mếu máo:

– Em sẽ tiễn chàng tới cửa, khi không còn trông thấy quan tài chàng nữa thì cũng là lúc mà chúng ta vĩnh biệt nhau.

Ông trưởng giả nhắm mắt trong sự buồn rầu, đau khổ. Một lúc sau, ông mở mắt nhìn về phía chân giường, nơi bà vợ Cả vừa già vừa xấu của ông đang sụt sịt, hỏi cho có lệ:

– Còn bà, chắc bà oán tôi bỏ bê bà lắm, đâu thèm nghĩ tới chuyện đi theo tôi bước vào cõi chết?

Nhưng thật là bất ngờ, bà vợ Cả bị bỏ rơi của ông cất giọng bình thản:

– Em đã cùng với chàng bước vào cuộc đời này từ khi chúng ta còn trong bụng mẹ, em sẽ đi theo chàng sang bên kia thế giới, tới tận những cuộc đời tiếp theo của chàng, mãi mãi, cho tới khi nào chàng tu hành thanh tịnh hóa được Bản Tâm, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thì sự liên hệ của đôi ta mới chấm dứt.

Trong câu chuyện ẩn dụ này, bà vợ thứ Tư là Danh vọng.

Đối với nhiều người, cái Danh quan trọng nhất. Cả một cuộc đời bận bịu làm ăn, khi có tiền, dù là có nhiều tới đâu, người ta vẫn thấy là không đủ, phải có Danh. Người ta cũng có thể dùng cả cuộc đời để cầu Danh, dùng cả vốn liếng tiền bạc để mua Danh. Ngay đến một anh du đãng, cũng sẵn sàng phanh ngực ra lãnh viên đạn, để giữ được cái danh là “kẻ anh hùng không sợ chết”. Nhưng cái Danh chỉ theo con người tới huyệt mộ, người quá vãng được thân bằng quyến thuộc đọc cho một bài diễn văn ca ngợi những danh vọng tiếng tăm mà họ đạt được trong cuộc đời, đôi khi cũng tâng bốc quá lên để trả nợ hoặc lấy cảm tình với tang gia. Rồi thì những nắm đất thi nhau bay xuống huyệt mộ, xóa dần hình bóng chiếc quan tài lộng lẫy bằng gỗ quý, thế là hết. Người chết chẳng còn được hưởng điều thiết thực gì.

Bà vợ thứ Ba là cái Nhà. Cái nhà được ông chủ o bế sơn quét, tu bổ trồng trọt dàn hoa, cây cảnh, tường cao, cổng lớn, cho thật uy nghi hùng vĩ, ai đi qua cũng tấm tắc khen ngợi. Thế nhưng khi quan tài ông quẹo vào góc phố thì cũng là lúc ông và cái nhà vĩnh viễn xa nhau.

Bà vợ thứ Hai là Tiền Bạc. Suốt một đời bươi chải, tiếng rủng rẻng của những đồng tiền từ tay ông trôi vào ngăn tủ, rộn rã tưng bừng, nay chỉ cùng ông nhìn thấy nhau trước khi quan tài của ông ra tới cửa mà thôi. Khi đám tang khuất sau cánh cửa là ông và tủ tiền đã ngàn đời xa cách nhau rồi.

Tiền tài, nhà cửa, danh vọng đều sớm bỏ rơi ông, chỉ còn lại bà vợ Cả là lẽo đẽo theo ông đến cuối cuộc đời, đến mãi tận bên kia thế giới, theo ông sang tới những kiếp khác trong tương lai. Bà vợ đó tượng trưng cho dòng Nghiệp.

Vậy Nghiệp là gì?

Cổ nhân thường nói rằng mỗi người đều có “Quỷ Thần hai vai” để chứng giám, ghi vào sổ Thiện Ác mọi hành động tốt hoặc xấu mà người ta đã làm trong cuộc đời, để đến ngày người ấy chết thì sẽ bị Diêm Vương chiếu theo sổ Thiện Ác này mà xét xử, nếu khi sống họ làm nhiều việc tốt thì cho họ lên Thiên Đình hưởng phước báo hoặc làm nhiều việc ác thì đày họ vào Địa Ngục để chịu tội báo.

Nhà Phật không quan niệm về một vị “Quỷ Thần hai vai”, nhưng cho rằng mỗi con người đều không chỉ sống có một đời, mà khởi đầu dòng đời bằng “một niệm vô minh bất giác”, rồi từ đó trôi lăn trong một chuỗi dài những sự sinh tử triền miên, gọi là dòng đời, theo Hành nghiệp, tạo Nhân rồi thọ Quả báo.

Trong chuỗi dài những cuộc tử sinh miên viễn đó, mọi hành vi của đương sự đều từ Thân, Miệng và Ý phát sinh ra, gọi là Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp và Ý Nghiệp, và đều được tàng trữ trong một cái kho vô hình gọi là Tàng Thức, có thể tạm ví như lớp màng tạp chất nổi trên mặt biển Chân Tâm thanh tịnh.

Chính những tạo tác được tích lũy trong Tàng Thức này là cơ sở của Nghiệp Lực, gọi là chủng tử, lôi cuốn dòng sinh mạng của mỗi đương sự tới nơi mà hắn sẽ tái sanh, rồi lại tiếp tục gieo Nhân, lãnh Quả, các hành vi tốt hoặc xấu trong quá khứ sẽ chi phối đời sống tương lai của đương sự, mãi mãi cho tới khi nào đương sự thanh tịnh hóa được Bản Tâm, hóa giải hết các chủng tử, thì Nghiệp Lực mới chấm dứt hiện hành. Nhà Phật có câu:

– Muốn biết thời quá khứ chúng ta đã làm gì thì cứ nhìn những quả báo chúng ta đang lãnh thọ trong hiện tại.

– Muốn biết thời tương lai của chúng ta sẽ ra sao thì cứ nhìn những hành động của chúng ta trong hiện tại.

Tiến trình của Nhân và Quả này là qui luật tự nhiên, không có ai tạo ra hoặc hủy diệt, ngoại trừ chính bản thân đương sự hóa giải được các chủng tử qua con đường thanh tịnh hóa Tâm. Nếu Tàng Thức còn chứa chủng tử thì dòng sinh tử vẫn tùy theo Nghiệp tốt hoặc xấu mà luân hồi, tái sinh.

Đức Phật dạy:

“Tất cả chúng sinh đều mang theo cái Nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sinh”.

Theo định nghĩa, Nghiệp là hành động có dụng tâm hay còn gọi là tác ý. Lời nói có tác ý thì gọi là khẩu nghiệp. Chúng ta thường hay nghe: “Lời nói rồi bay mất”. Câu ấy không đúng. Lời nói ác khi hội đủ nhân duyên sẽ đem lại quả báo xấu cho người nói. Lời nói thiện cũng có tác dụng như vậy, theo hướng thiện. Thí dụ, khi chúng ta gặp người nghèo khổ, bất hạnh, chúng ta trạnh lòng thương xót, đem lời an ủi, vỗ về thông cảm. Lời an ủi đó, bắt nguồn từ tấm lòng từ ái của chúng ta là một khẩu nghiệp thiện, tương lai sẽ đem lại cho chúng ta quả báo lành.

Có dụng tâm thiện hay ác là Ý Nghiệp, mặc dù ý nghĩ đó chưa thành lời nói, chưa thành văn viết hay hành động. Một người tuy cả ngày không nói, không làm gì, nhưng đầu óc luôn bày mưu tính kế với những thủ đoạn gian lận, xấu xa, v.v… thì những mưu gian, kế độc của hắn ta, tuy chưa thực hiện, nhưng đã tác ý, cũng đều là những Ý Nghiệp xấu, tương lai sẽ mang lại quả báo xấu. Nẩy ra ý kiến rồi lại đem thân đi tạo tác, thì đó là Thân Nghiệp.

Tuy nhiên, những việc làm do vô tình, không khởi tâm tác ý, thì cũng không trong vòng nghiệp báo.

Từ những điều được trình bày ở trên, chúng ta có thể rút ra hai kết luận:

– Thứ nhất là trong từng giây phút chúng ta có thể tạo nghiệp mà không biết, bởi vì, chỉ trừ khi chúng ta ngủ, còn thì chúng ta thường xuyên suy nghĩ, nói năng và hoạt động; và mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm, mỗi cử chỉ, hành động của chúng ta đều có thể tạo nghiệp, làm thay đổi cuộc sống của chúng ta trong hiện tại và mai sau.

– Thứ hai là mọi nghiệp thiện hay ác, lành hay dữ, nặng hay nhẹ, đều do ở chỗ tác ý tức là có chủ ý, có mưu định. Tác ý thiện đưa tới quả báo an lành, tác ý ác đưa tới quả báo đau khổ. Cũng như người trồng cam thì sẽ được cây cam và quả cam. Không thể trồng cam mà lại mọc ra cây ớt. Tất nhiên, trồng cam vẫn có thể không có cam ăn, nếu không biết trồng, không bón phân tưới nước. Hơn nữa, dù cho có biết trồng thì cũng phải có thời gian nhất định mới có quả. Tạo nghiệp ác hay nghiệp thiện cũng vậy, nghĩa là phải có đủ nhân duyên và thời gian thích hợp thì mới có quả báo thiện hay ác.

Có người tuy hiện nay tạo nhiều nghiệp ác, nhưng vẫn sống sung sướng trong hoàn cảnh giàu sang, là vì người ấy trong thời quá khứ đã tạo ra nhiều nghiệp thiện, đến lúc này vừa đúng thời gian lại có điều kiện thích hợp cho nên quả báo của những thiện nghiệp đó trổ ra, vì thế họ vẫn còn được hưởng giàu sang phú quý. Còn những nghiệp ác họ đã tạo ra trong đời sống hiện tại, thì chưa đến thời gian chín muồi, lại chưa có nhân duyên thích hợp, cho nên quả báo ác chưa đến chứ không phải sẽ không đến!

Chúng ta cũng cần phân biệt thân thọ nghiệp, tức là nghiệp mà thân cảm thọ, với tâm thọ nghiệp, là nghiệp mà tâm cảm thọ. Người làm điều ác thì tâm của họ luôn luôn thắc mắc, ray rứt không yên, đó là tâm thọ nghiệp. Hoặc có những người hiện nay sống rất thiện lành, nhưng cuộc đời lại nghèo khổ, cơ cực, hoặc thường gặp rủi ro, bất hạnh. Đó là do những nghiệp ác của người ấy trong thời quá khứ, đến nay đã chín muồi, lại gặp nhân duyên đầy đủ, cho nên quả báo đau khổ hiện ra, không thể tránh được. Nếu hiện nay người đó sống nghèo khổ, nhưng lại có thiện tâm học và hiểu Phật pháp, vững tin vào mối tương quan nhân quả, quyết tâm làm điều thiện để chuyển nghiệp, thì dù sống trong sự nghèo nàn, tâm họ vẫn được an vui…

Nói tóm lại, nếu đứng về tâm thọ nghiệp thì có thể nói là quả báo xảy ra tức thời, như bóng theo hình, hay là như bánh xe lăn theo chân con bò, đúng như trong kinh Pháp Cú, bài kệ I và II viết:

Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động

Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo

Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình”.

Hai bài kệ trên còn cho thấy vai trò làm chủ của ý, tức là sự tác ý đối với nghiệp nơi thân (thân nghiệp) và nghiệp nơi lời nói (khẩu nghiệp). Cũng do vậy mà đạo Phật luôn luôn nhấn mạnh trong thuyết nhân quả nghiệp báo “tác ý là nghiệp”. Vì thế phải dụng tâm, chế ngự tâm, làm sao cho tâm mình luôn luôn nghĩ thiện, nghĩ lành, thì Thân Nghiệp và Khẩu Nghiệp cũng sẽ thiện và lành, đời này và đời sau sẽ được an lạc, hạnh phúc.

Tiến lên một bước là thanh tịnh hóa Tâm, (tâm không còn nghĩ tới thiện hoặc ác nữa). Phật giáo không dừng lại ở điểm “Không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành”, chuyển Nghiệp xấu thành Nghiệp tốt, mà còn đi xa hơn, đến chỗ “Tâm ý thanh tịnh, giải thoát”, nghĩa là thoát ly sự trói buộc của đời sống tương đối trong vòng nhân quả.

Siêng làm điều Thiện, không làm việc Ác, chỉ là vấn đề luân lý của đạo Phật, Giác Ngộ Giải Thoát mới là mục tiêu cốt tủy của Phật giáo.

Liên Hương (ĐPK)

Trích Thư viện Hoa Sen

“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”

Đức Phật dạy rằng: “Tất cả các loài chúng sanh đều có Phật tánh mà vì mê mờ nên không nhận ra”. Các loài chúng sanh ở đây để chỉ các loài “hữu tình chúng sanh”, là những loài có các cơ quan cảm giác, có những phản ứng tâm lý, theo quan điểm của nhà Phật thì đó là những “Chánh Báo” của dòng sanh tử luân hồi. Còn những “vô tình chúng sanh” như cây cỏ, gỗ đá thì chỉ là những “Y Báo”, xuất hiện trong Biển Tâm mênh mông và được những “Chánh Báo” nhận biết tùy theo duyên nghiệp của họ, thí dụ người và cá không nhận biết dòng sông giống nhau, đối với cá, dòng sông là nguồn sống, là nơi sanh trưởng, là thành phố, là quốc độ, là tổ ấm, trong khi con người thì không thể ăn ngủ ở dưới sông được, nhìn thấy chiều sâu hun hút của dòng nước là đã sợ chết đuối rồi.

Phật là “Giác“, Phật tánh là Giác tánh, là “Cái Thấy Biết”, là bản thể của sự sống. Đức Phật đã giác ngộ, đã “hội nhập lại được Cái Thấy Biết” này, đã “thực chứng” được “bản thể thanh tịnh bất sanh bất diệt”. Chúng sanh thì chưa nhận ra, vẫn tưởng rằng bản thân mình, “cái tôi”, là cái vọng tâm sanh diệt với mọi suy nghĩ liên miên bất tận trong bộ óc của cái thân xác này.

Qua sự giác ngộ, đức Phật nhận ra rằng “tất cả chúng sanh đều có bản thể thanh tịnh (Phật tánh, Giác tánh) như nhau, chỉ vì không nhận ra được mà bị vô minh lôi cuốn vào vòng luân hồi sanh tử“. Cho nên đức Phật tận tụy truyền bá đạo Giải Thoát, dạy chúng sanh chấm dứt những hành vi tạo nên nghiệp ác, siêng làm những việc tạo nên nghiệp thiện, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt, là giai đoạn tu hành trong Nhân và Thiên Thừa. Rồi sẽ tiến tới giai đoạn tu hành trong Bồ Tát Thừa và Phật Thừa là “thanh tịnh hóa tâm” để “Tâm bổn lai thanh tịnh” xuất hiện, giác ngộ hoàn toàn, như đức Phật.

Vì thế, bất cứ ở trong giai đoạn tu hành nào, một người Phật tử chân chính vẫn phải “tin sâu nhân quả”, tránh tạo nghiệp ác, không làm tổn hại, gây đau khổ cho chúng sanh.

Tuy nhiên, đôi khi vì không nhận định sâu xa, chúng ta vô tình gây nghiệp ác, làm đau đớn cho chúng sanh cũng có Phật tánh, cũng có thân nhân gia đình cha mẹ con cái, cũng biết yêu thương như mình.

Đức Đạt Lai Lạt Ma có câu truyện nói về vấn đề “Câu cá giải trí có tạo nghiệp không?” trong cuốn “Phật Giáo Truyền Thống Tây Tạng“, như sau:

…”…Nói về nghiệp sát sinh thì, nếu chúng ta giết, dù chỉ con vật nhỏ nhít nhất, cũng tạo nên một ác nghiệp. Một vài nền triết học hay trường phái tư tưởng cho rằng nếu ta giết một chúng sinh như con cá, thì đây không phải là một ác nghiệp, và sẽ không có quả báo xấu nào cả. Họ nghĩ rằng một con cá thì không có tâm, nghĩa là không cảm thọ đau khổ. Nhưng nếu suy xét một cách cẩn thận, ta có thể xác định con cá có tâm hay không .

Không cần phải nghiên cứu Pháp mới biết được một con cá có tâm hay không, mà chỉ cần quan sát ta cũng có thể hiểu được điều này . Chúng ta nên xem xét làm thế nào những người chài lưới cố bắt cá. Những ông chài đặt thực phẩm trên đầu lưỡi câu và ném lưỡi câu xuống nước. Khi một con cá trông thấy thức ăn, nó phát sinh tham ái mạnh mẽ muốn ăn miếng mồi ấy …Như thế, khi con cá nghĩ mình trông thấy một vật ăn được, là nó phải có một cái tâm. Con cá phát sinh ước muốn ăn và tiến lại gần miếng mồi phải có một cái tâm. Nếu cá không có tâm, thì nó sẽ không bao giờ đến gần miếng mồi đầu lưỡi câu, vì nó sẽ không bao giờ phát sinh ước muốn ăn miếng mồi ấy . Từ ví dụ này chúng ta có thể hiểu rằng quả thực cá cũng có tâm.

Cũng tương tự, nếu ta xem xét cái gì xảy ra khi một con cá bị bắt, ta có thể quan sát thấy nó có tâm hay không. Khi con cá mắc câu bị lôi lên khỏi mặt nước, thân thể nó chảy máu, và nó dẫy dụa cùng khắp. Lúc đó con cá vô cùng đau khổ. Do quan sát những hành vi của con cá và nỗi thống khổ của nó, ta có thể hiểu rằng cá có một cái tâm. Bởi thế, nếu ta giết một con cá, ta vẫn phải chịu ác nghiệp về sát .

Nếu ta giết bất cứ một hữu tình (sentient being) nào, nghĩa là một sinh vật có tâm thức (mind), thì ta sẽ gây ra một ác nghiệp. Thực không cần thiết phải chấp nhận giáo lý Phật về vấn đề này; mà đúng hơn ta nên nhìn tận mắt để xem những hữu tình như sâu bọ và súc vật có kinh nghiệm qua khổ đau hay không.

Nếu ta gây đau khổ cho bất cứ một chúng sinh nào, ta sẽ tạo một ác nghiệp. Bởi thế, dù một chúng sinh lớn hay nhỏ, ta đều nên tránh làm tổn thương hay giết nó.”

Không riêng gì người Phật tử chúng ta nhận thức được là con vật cũng có tâm linh, cũng có những niềm vui, nỗi buồn như người, trong câu chuyện “Bài diễn văn hay nhất thiên niên kỷ ” cũng nói lên được những tình cảm buồn vui, đau khổ, yêu thương chân thật của loài vật. Câu chuyện như sau:

“Bài diễn văn của Luật sư George Graham Vest tại một phiên tòa xét xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên Wiliam Safire của báo The New York Times (Nữu Ước thời báo) bình chọn là hay nhất trong tất cả các diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 1,000 năm qua.

Thưa quý ngài hội thẩm,

Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hóa ra kẻ thù quay ra chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi ra có thể là một lũ vô ơn.

Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự, có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động dại một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ rơi ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta.

Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết vấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được! Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi va chạm với cuộc đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng, dù ta có làm một gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân tàn danh liệt, thì vẫn còn, con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó được làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy, khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy vẫn còn bên nấm mồ ta – con chó cao thượng của ta, nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã chết rồi!”

Để có thể Giác Ngộ lại Bản Thể Tuyệt Đối như đức Phật là một việc làm khó khăn và lâu dài. Tuy vậy, ngay khi mới bước lên con đường đi tới, chúng ta đã có được những niềm an vui nếu chúng ta nhìn muôn loài chúng sinh bằng con mắt bình đẳng, không giết hại chúng, tuân theo những điều Phật dạy trong giới răn thứ nhất là “không sát sanh”. Nếu chúng ta có thể giảm thiểu bớt những ham muốn, buông xả bớt những thói quen có thể làm cho chúng ta chìm đắm trong sự suy nghĩ bất công với muôn loài, cứu giúp chúng sanh mà không sát hại, là chúng ta đã dũng tiến trên con đường giác ngộ giải thoát.

Trong lần phát thanh kỳ trước quý thính giả và các bạn đã nghe Krishnamurti nói về mối giao cảm với muôn loài. Ngài nói:

“Dường như chẳng bao giờ chúng ta có chút cảm xúc nào hướng về muôn loài trên trái đất. Nếu như chúng ta thiết lập được mối giao hảo sâu xa bền chắc với thiên nhiên thì chúng ta đã chẳng bao giờ giết con vật để được ngon miệng, chẳng bao giờ làm tổn thương, mổ xẻ con khỉ, con chó, những con vật trong phòng thí nghiệm, đang khi nó còn sống, vì lợi ích của chúng ta. Chúng ta sẽ tìm những cách khác để điều trị vết thương, để cứu mạng chúng ta. Nhưng điều trị tâm hồn thì lại hoàn toàn khác. Sự hồi phục sẽ tới từ từ nếu chúng ta sống hài hòa với thiên nhiên, với trái cam trên cành cây, với nhánh cỏ nhú lên từ kẽ nứt xi măng, và với những ngọn đồi nằm ẩn dưới những tầng mây bao phủ.

Đây không phải nói theo tình cảm tầm phào hoặc tưởng tượng lãng mạn mà là chuyện thực tế của mối giao hảo với muôn loài đang sống, đang chuyển động trên trái đất. Người ta đã giết hàng triệu con cá voi và sẽ còn giết nữa. Tất cả những gì chúng ta lấy được từ sự tàn sát chúng thì chúng ta cũng có thể có được bằng những cách khác. Nhưng rõ ràng là chúng ta thích giết mọi loài, như con nai phóng vút qua, con linh dương kỳ diệu và con voi to kềnh. Chúng ta thích giết hại lẫn nhau. Trong lịch sử loài người trên trái đất, sự giết chóc này chưa bao giờ ngưng. Nếu chúng ta có thể, và chúng ta phải, thiết lập một mối tương quan giao hảo bền chặt thâm sâu với thiên nhiên, với cây cỏ, lùm bụi, hoa trái, với đám mây bay trên trời, từ đó, chúng ta sẽ không bao giờ còn giết người vì bất cứ lý do nào nữa.”

Qua một vài câu chuyện chúng tôi đã dẫn trên, chúng ta thấy loài vật cũng có những niềm vui và nỗi buồn, chúng cũng có giác tánh như con người. Chúng tôi mời quý vị nghe thêm câu chuyện tình của chú ngựa tên Blue trong bài viết “Am I blue ? của tác giả Alice Walker, do Vy Khanh chuyển ngữ với tựa đề là “Buồn ơi ! Ai biết chăng ai ?”

Vườn nhà chúng tôi trồng rất nhiều táo, trong số đó có một cây ngay cạnh hàng rào là con ngựa Blue gần như có thể với tới. Chúng tôi đã sớm có thói quen cho Blue ăn táo, món mà nó thích. Đôi khi nó đứng rất lặng lẽ ngay cạnh cây táo, và khi thấy một đứa trong bọn chúng tôi bước ra là nó hí, nó khịt mũi ồn ào và giậm chân xuống đất thình thịch. Dĩ nhiên điều đó có nghĩa là :”Tôi muốn ăn táo”. . .

Blue cô đơn lắm, cô đơn và buồn chán một cách kinh khủng. Tôi không lấy làm lạ về chuyện đó; hằng ngày một mình lê lết trên khu vườn rộng năm mẫu, chẳng có chuyện gì đặc biệt thích thú xảy ra. . .

Không, tôi đã bàng hoàng nhớ ra rằng người và vật có thể truyền thông tư tưởng với nhau rất bén nhậy.. 

Hồi đó là khoảng năm thứ hai chúng tôi ngụ trong căn nhà này, có một chuyện xảy ra cho cuộc đời Blue. Vào một buổi sáng, nhìn qua khung cửa sổ ra cảnh trời sương tỏa như những giải nơ trên cánh đồng cỏ, tôi thấy một con ngựa khác, mầu nâu, đang đứng phía bên kia cánh đồng cỏ của Blue. Lúc đầu chàng Blue có vẻ sợ, đã mấy ngày qua mà nó không dám lại gần con ngựa nâu.

Chúng tôi có việc phải xa nhà mất một tuần. Khi chúng tôi trở về thì Blue đã quyết định kết bạn với con nâu rồi và hai đứa lúc thì nhẩn nha thả nước kiệu, lúc thì phi nước đại, gắn bó bên nhau, và Blue không còn thường tới gần cây táo như trước nữa.

Nhưng câu chuyện không kéo dài mãi mãi. Một ngày kia, sau khi ra tỉnh trở về, tôi bước ra vườn tính cho Blue ăn vài trái táo. Nó đang đứng chờ, hoặc là tôi nghĩ thế, dù không đứng dưới cây táo. Khi tôi rung cây và nhẩy lùi về phía sau để tránh trận mưa táo rụng, con Blue không nhúc nhích. Tôi nhặt mấy trái đem lại cho nó. Nó gắng gượng cắn nửa trái. Số còn lại, nó mặc kệ cho rơi lả tả xuống đất. Tôi kinh hoảng nhìn vào đôi mắt nó — bởi vì dĩ nhiên là tôi đã nhận ra rằng con Brown, bạn tình của nó, đã đi mất rồi — tôi nhìn sững nó. Nếu tôi ra đời với thân phận kẻ nô lệ, và bạn tình của tôi bị bán hoặc bị giết, thì ánh mắt tôi cũng bi thương đến thế mà thôi.

Tôi được lũ trẻ hàng xóm cho biết là bạn tình của con Blue được “cho xáp lại với Blue”, . . . như thế chúng nó có thể giao phối và con Brown có thể thụ thai. Vì sứ mạng đã hoàn thành nên con Brown được trả về cho chủ nó, cư ngụ tại nơi khác.

Tôi hỏi:

– Nó có trở lại không?

Nhưng bọn chúng chẳng đứa nào biết.

Blue giống như người điên loạn. Đối với tôi thì Blue chính là một người điên loạn. Nó phóng nước đại một cách giận dữ, như nó đang bị cưỡi, không ngừng chạy quanh khu đồng cỏ đẹp đẽ rộng năm mẫu. Nó hí vang trời cho tới khi lạc cả giọng. Móng chân nó cào liên tục lên mặt đất. Nó vật mình vật mẩy, húc vào thân cây. Rồi nó phóng tầm mắt ra xa, xa tít mù khơi, về phía con đường đã đem bạn nó đi mất.

Từ đó, thỉnh thoảng, mỗi khi nó đến vì muốn được ăn táo, hoặc tôi mang táo đến cho nó, nó lại nhìn sững tôi. Cái nhìn sao mà tan nát cõi lòng với ánh mắt đầy đau khổ, cái nhìn sao mà “người” quá, tôi gần như phát lên tiếng cười (tôi cảm thấy quá đau buồn để còn có thể khóc được) khi nghĩ đến những con người đã không biết rằng loài vật cũng đau đớn đến tan nát cõi lòng.

Trích Thư viện Hoa Sen

Quên Đi Tự Ngã

Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen Zenji, hay Eihei Dogen (1200-1253)) là một đại thiền sư thời cổ, và được nhiều người xem như một vị thiền sư vĩ đại nhất. Phật giáo đồ Nhật Bản trong tất cả mọi tông phái đều kính ngưỡng Đạo Nguyên như một vị bồ tát. Ngài là người đầu tiên đã đem dòng thiền Tào Động đến Nhật Bản.

Sau khi học đạo với các vị thầy ở Nhật, Đạo Nguyên qua Trung Hoa tu học. Ngài đại ngộ ngay khi sư phụ Trung Hoa của ngài là Ju Ching nói phải “buông hết cả thân lẫn tâm”. Sau đó ngài đã đến trình kiến giải và được sư phụ ấn chứng. Lòng đầy tri ân, Đạo Nguyên quỳ sụp xuống đảnh lễ thầy. Ju Ching nói, “Buông luôn cả cái buông!” 

“Hiện thành công án” (Genjokoan) là một chương nổi tiếng trong quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” (Shobogenzo), nói đến sự liên hệ của tu thiền và giác ngộ. Đây là một tuyệt tác vô song, với những lời lẽ thâm sâu bàng bạc ý vị thơ, biểu lộ tri kiến của một bậc giác ngộ đã vượt ngoài đối đãi. 

Khi vạn pháp được coi như pháp Phật thì thấy có ngộ và mê, có tu tập, có sanh tử, Phật và chúng sinh.

Khi vạn pháp được coi như vô ngã, sẽ không thấy có ngộ và mê, không có tu, không sanh không tử, không Phật không chúng sinh.

Phật Đạo vượt ra khỏi cái có và không. Cho nên có mê ngộ, có sinh tử, Phật và chúng sinh. Nhưng những đóa hoa đẹp chúng ta ưa thích vẫn héo tàn, và những cỏ dại chúng ta không ưa vẫn lớn mạnh.

Cố dấn thân đi tìm sự tu tập và kinh nghiệm vạn pháp thì đó là mê. Khi vạn pháp tu tập và kinh nghiệm chính mình thì đó là ngộ. 

Giác từ chỗ mê thì gọi là Phật, mê trong chỗ giác thì gọi là chúng sanh. Lại có giác ngộ theo sau giác ngộ, có mê ở trong mê.

Phật chân chính không thấy mình là Phật. Nhưng họ vẫn là những vị Phật hiện thân đangtrải nghiệm đời sống Phật hàng ngày. 

Khi nhìn sắc với toàn thân và tâm, nghe âm thanh với toàn thân và tâm, ta có thể trực tiếp cảm nhận được chúng, nhưng đó không giống như hình ảnh phản chiếu trên một tấm gương hay như bóng trăng dưới nước … Khi chúng ta thấy được một bên, chúng ta không thấy bên kia.

Học Phật tức là học về tự ngã

Học về tự ngã là quên đi tự ngã

Quên đi tự ngã là được vạn pháp khai ngộ

Được vạn pháp khai ngộ là buông hết cả thân tâm mình và ngoại cảnh.

Chứng ngộ rồi không còn thấy dấu vết nào của chứng ngộ, và sự chứng ngộ không dấu vết ấy sẽ tiếp nối mãi mãi.

Khi mới đi tìm cầu học đạo, ta tưởng rằng mình cách biệt xa rời với đạo.

Khi đã chứng được đạo chân truyền, ngay trong giây phút đó ta là con người nguyên thủy của Đạo.

Khi đang đi trên thuyền, nếu nhìn vào bến người ta tưởng như bến đang di chuyển.

Nhưng nếu nhìn vào thuyền, người ta biết được rằng chính thuyền đang di chuyển.

Nếu nhìn vạn pháp với thân tâm si mê, ta tưởng rằng tâm và tính của ta là thường hằng,

Nhưng nếu tu tập tinh chuyên và trở về được với con người nguyên thủy của mình, ta sẽ thấy rõ rằng vạn pháp đều là vô ngã.

Củi cháy ra tro và không trở lại thành củi được nữa.

Nhưng đừng tưởng rằng tro là có sau và củi là có trước.

Phải biết rằng củi là ở trong trạng thái củi và có trạng thái trước và sau đó. Nhưng tuy có trạng thái trước và sau, củi tách rời khỏi những trạng thái đó.

Tro ở trong trạng thái tro và có trạng thái trước và sau.

Cũng như củi không trở lại thành củi sau khi đã cháy ra tro, con người chết đi không sống trở lại nữa.

Như thế, giáo lý Phật dạy rằng sinh không trở thành tử, vì lẽ đó sinh được gọi là không có khởi đầu.

Giáo lý Phật cũng dạy rằng tử không trở thành sinh, vì vậy tử được gọi là không có chấm dứt.

Sinh là một giai đoạn của sự sinh

Tử là một giai đoạn của sự tử.

Ví dụ như mùa đông và mùa xuân.

Ta không nghĩ rằng mùa đông trở thành mùa xuân, cũng không nghĩ rằng mùa xuân trở thành mùa hạ. 

Người giác ngộ giống như bóng trăng phản chiếu trên mặt nước. Trăng không bị ướt, nước cũng không bị xao động.
Tuy ánh trăng tỏa chiếu khắp nơi, nhưng trăng vẫn được phản chiếu ngay trong một vũng nước nhỏ xíu. Tất cả trăng và bầu trời đều được phản chiếu trong một giọt sương trên cỏ, trong một giọt nước long lanh.

Giác ngộ không làm ta xao động, như bóng trăng không làm xao động mặt nước. 

Người không thể ngăn cản được giác ngộ, giống như giọt sương không thể cản ngăn được trăng và bầu trời cao. Chiều sâu của giọt nước (chiều sâu của giác ngộ) có thể sánh với chiều cao của trăng. Khoảnh khắc dài hay ngắn (hình ảnh phản chiếu của trăng) là tuỳ nơi vũng nước ấy lớn hay nhỏ, và được quán sát tương quan với bề rộng hay hẹp của trời và trăng.

Khi chân lý chưa có trong thân tâm, ta tưởng như thế đã là đầy đủ.

Khi chân lý có trong thân tâm, ta nhận ra rằng có điều gì thiếu sót.

Ví dụ, khi nhìn khắp bốn phương trên một chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả không thấy bến bờ, ta chỉ thấy một đường vòng cong, và không có gì khác.

Tuy nhiên, đại dương không tròn cũng không vuông, và có những đặc tính khác nhau vô tận. Nó giống như một cung điện. Giống như một viên châu ngọc. Nó trông như một đường vòng cong vì lúc đó tầm mắt ta chỉ thấy như vậy.

Vạn pháp cũng như thế.

Đời sống này có nhiều khía cạnh khác nhau của cõi trần lao và cõi giới giác ngộ, nhưng ta chỉ có thể nhận và hiểu được chúng qua mức độ tri kiến do sự tu tập mang lại.

Để nhận ra được bản chất của vạn pháp, ta phải biết rằng tuy trông chúng có thể tròn hay vuông, nhưng biển và núi còn có những đặc tính khác thật là vô tận; hơn nữa còn có những thế giới vũ trụ khác ở khắp các phương trời. Chúng không chỉ ở chung quanh ta, mà còn phản chiếu ngay đây, trong một giọt nước rơi. 

Khi cá bơi trong đại dương, dù cá có bơi xa đến đâu cũng không bao giờ đến tận cùng của nước. Khi chim bay trên trời, dù chim có bay xa đến đâu cũng không bao giờ đến tận cùng của không trung.

Ngay từ khởi thủy, cá và chim không từng xa rời nền tảng của chúng.

Khi nhu cầu hoạt động rộng lớn chúng sẽ có tầm hoạt động rộng lớn. Khi nhu cầu hoạt động nhỏ hẹp chúng sẽ có tầm hoạt động nhỏ hẹp.

Như thế, nền tảng hoạt động của các chúng sinh ấy đều được tân dụng tối đa, mỗi chúng sinh trong cõi giới riêng của chúng. Dù đang ở đâu, chúng cũng không rời nền tảng căn bản của mình.

Khi chim ra khỏi không trung, nó sẽ chết ngay. Khi cá ra khỏi nước, nó sẽ chết ngay.

Vậy hãy biết rằng nước là sự sống.

Hãy biết rằng không trung là sự sống.

Sự sống là chim, và sự sống là cá.

Vượt lên trên đó, còn có những tiến trình xa hơn, như sự tu tập, chứng ngộ, thời gian hiện hữu của đời sống con người.
Nếu một con chim hay con cá cố tìm cách ra khỏi nền tảng của mình, con chim hay con cá ấy sẽ không tìm được lối đi hay vị trí của nó. Khi biết được bản vị của mình, sự tu của chúng ta trong đời sống hàng ngày là sự hiện thành của giác ngộ (hiện thành công án – genjokoan). Khi biết được lối đi (Đạo) của mình, sự tu của chúng ta trong đời sống hàng ngày là sự hiệnthành của giác ngộ.

Bản vị này và lối đi (Đạo) này không lớn cũng không nhỏ, không năng và không sở, không tồn tại trong quá khứ cũng không khởi lên trong hiện tại, cho nên chúng là hiện hữu như thế (Như Thị).

Người nào tu tập đạo giác ngộ như vậy, khi đạt pháp nào là thấu suốt pháp ấy, khi gặp việc gì là làm tròn việc ấy. 

Bản vị là ở đây, lối đi (Đạo) là ở khắp nơi. Biên giới của giác ngộ không thể thấy được, bởi vì sự hiểu biết và giác ngộ đều được trải nghiệm cùng một lúc. 

Đừng tưởng rằng những gì giác ngộ được sẽ trở thành kiến thức của mình và chấp trước vào đó. Ngay cả khi đang chứng nghiệm sự giác ngộ, cũng không chắc là bản chất sâu kín của giác ngộ đã được hiển thị – đó là điều vượt ngoài mọi suy luận nghĩ bàn. 

Sư Baoche ở núi Mayuku đang ngồi quạt. Một vị tăng đến hỏi:

“Bạch thầy, tính của gió(hay khí) là thường hằng, không có chỗ nào là không đến được. Thế thì tại sao thầy phải ngồi quạt?”

Sư trả lời:

“Tuy ngươi hiểu tính của gió (hay khí)là thường hằng, nhưng không hiểu ý nghĩa chân lý của “không chỗ nào là không đến được”.”

Tăng hỏi:

“Cái gì là ý nghĩa chân lý của “không chỗ nào là không đến được”?

Sư chỉ ngồi quạt. Tăng kính cẩn cúi đầu đảnh lễ. 

Kinh nghiệm khai ngộ Phật pháp và phương tiện truyền thừa linh động là như thế. Nếu cho là ta không cần dùng quạt bởi vì gió (hay khí) là thường hằng, hay nói là dù không dùng quạt ta vẫn cảm thấy gió (hay khí) chung quanh, tức là không biết thường hằng, và không biết bản tính của gió (hay khí). 

Bởi vì tính của gió (hay khí) là thường hằng, cho nên phong hóa* của đạo Phật có thể biến đất thành vàng ròng, biến nước trường giang thành đề hồ. 

(*Chú thích: Phong hóa: phong tục và giáo hóa. Chữ “Phong” được dùng hai lần trong đoạn này với ý nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất là “gió” hay “khí” như trong câu truyện trên. Nghĩa thứ hai là “phong” như trong “phong tục, phong độ, phong thái, phong hóa v.v..”, được dùng trong câu cuối cùng.)

Quên Đi Tự Ngã (Genjokoan)

Ngọc Bảo phóng dịch

(Tham khảo các bản dịch Anh ngữ của:
Hakuyu Taizan Maezumi (An introduction to the Buddha & his teachings)
Gudo Nishijima & Chodo Cross (Master Dogen’s Shobogenzo)
Yasuda Joshu Roshi & Anzan Hoshin Roshi)

 

Phật pháp trong đời sống

Xin trích dịch một số câu hỏi, được Ni Sư Thubten Chodron giải đáp trong cuốn Buddhism for Beginners. 


Ni Sư Thubten Chodron là người Hoa Kỳ, đã viết nhiều sách giảng dạy Phật pháp như Open Heart & Clear Mind, How to Free Your Mind, Taming the Monkey Mind, Cultivating a Compassionate Heart, Blossoms of the Dharma, vân vân…. Cuốn Buddhism for Beginners được giới thiệu như sau:

“Cuốn sách này bao hàm những vấn đề căn bản nhất, đã gây thắc mắc trong tâm những người phương Tây, vốn còn xa lạ với cách tu tâm của người phương Đông. Với cách hành văn trong sáng và hấp dẫn, Ni Sư Thubten Chodron đã đưa người đọc qua những đề tài thông thường trong đời sống hằng ngày, dưới ánh sáng giáo lý của nhà Phật, nói về những cách sống sao cho sáng suốt, an lạc và hạnh phúc hơn. Tác giả đã gỡ bỏ những bối rối, hiểu lầm, trong tâm chúng ta, và dẫn chúng ta tiến vào những điều căn bản nhất của đời sống tinh thần sinh động và phong phú này.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói như sau:

“Cuốn Buddhism for Beginners được viết cho người muốn tìm hiểu những điều căn bản nhất của đạo Phật, và cách ứng dụng những điều căn bản đó vào đời sống hằng ngày. Nó sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho độc giả”.

Sau đây, chúng tôi xin kính gửi tới quý thính giả những câu hỏi và những giải đáp của Ni Sư Thubten Chodron, trích dịch từ cuốn sách kể trên.

Hỏi: 

– Làm thế nào để một người sống cuộc đời bình thường, một cư sĩ, không phải là tu sĩ, có thể thực hành Phật pháp?

Ni Sư Thubten Chodron trả lời:

– Những người sống cuộc đời bình thường, những nam cư sĩ và nữ cư sĩ, không phải là tu sĩ, vẫn có thể thực hành Phật pháp như mọi người khác, trong công cuộc rèn luyện tâm trí. Tại một vài nền văn hóa Phật giáo, người ta đã tự đánh giá thấp khả năng của họ, khi nghĩ rằng: 

– “Tôi chỉ là một cư sĩ bình thường. Nghe pháp, tụng niệm, tọa thiền là công việc của chư Tăng Ni. Đó không phải là việc của tôi. Tôi chỉ được tới chùa để lễ lạy, cúng dường Tam Bảo và cầu xin cho gia đình tôi được sự phù hộ độ trì mà thôi”. 

Những việc làm như tới chùa lễ lạy, cúng dường Tam Bảo, cầu xin cho gia đình, vân vân, thì cũng tốt. Nhưng các cư sĩ có khả năng để làm hơn thế. Họ có thể học hỏi giáo lý, tu tập để thăng hoa tâm linh, và đem những lợi ích của sự tu tập đó ứng dụng vào cuộc đời. Các cư sĩ nên thường xuyên đi nghe giảng về Phật pháp. Và khi có thể, thì tham dự những khóa tĩnh tâm. Như thế, mọi người sẽ đều được thấm nhuần giáo lý giải thoát và sự cao đẹp của Phật pháp. Nếu không thì mãi mãi họ cũng vẫn chỉ là những “Phật tử thắp nhang” mà thôi. Và rồi, nếu có người hỏi họ về giáo lý nhà Phật, thì họ cũng đành ú ớ, chẳng biết gì để mà trả lời. Tình trạng đó thật là đáng buồn.

May thay, hiện nay đã có nhiều Phật tử, tại cả Á Châu và Tây Phương, rất tích cực tu học Phật pháp và hành thiền, đó là những dấu hiệu tốt.

Trong cuộc đời của mỗi Phật tử, nên thọ trì Ngũ Giới, hoặc khi có dịp thì nên thọ Bát Quan Trai Giới. Làm vậy, tâm họ sẽ tăng cường sự tỉnh thức và nếp sống đạo cũng có được những thành quả tích cực.

Ngoài ra, Phật tử cư sĩ cũng có thể tham dự những buổi tĩnh tâm, hành thiền, hoặc đi nghe giảng pháp tại các chùa, hoặc các trung tâm Phật giáo vào những ngày cuối tuần, hoặc dùng một vài kỳ nghỉ phép thường niên, để tham dự các khóa tu tâm dài ngày hơn.

Nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng và hoằng truyền giáo pháp của đức Đại Bi Thế Tôn nằm trong tay tất cả bốn chúng, gồm có chư Tăng, chư Ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ. Nếu nhận ra được chân giá trị của Phật pháp, và mong ước giáo pháp được dàn trải khắp nơi, thì tất cả chúng ta phải nhận lãnh trách nhiệm, phải siêng năng học lý thuyết cho thấu triệt, và tinh tấn thực hành những điều đã học được, tùy theo khả năng của chúng ta.

Hỏi:

– Xin cho biết về sự liên hệ giữa chư Tăng Ni và các cư sĩ Phật giáo?

Ni Sư Thubten Chodron đáp:

– Như đức Phật đã quy định, bổn phận của chư Tăng, Ni, là giữ gìn trọn vẹn giới luật đã nguyện hứa, đồng thời học và thực hành Phật pháp, rồi đem sự hiểu biết đó hướng dẫn lại cho Phật tử tu hành.

Về phần giới cư sĩ Phật tử thì cung cấp những sự cần thiết cho đời sống của người tu sĩ, như nơi cư trú, y phục, thực phẩm và thuốc men. Sự phân nhiệm này có mục đích dành cho giới tu sĩ có nhiều thì giờ để chuyên tâm học hỏi và hành thiền, để họ mau tiến bộ trên đường tu tập, để rồi qua sự tiến bộ của họ, sự truyền dạy giáo pháp lại cho giới cư sĩ cũng đạt được nhiều hiệu quả. 

Mối quan hệ này đã lưu truyền trong khắp các truyền thống Phật giáo, dù khác hình thức. 

Tại các tu viện Thiền Tông ở Trung Hoa, làm lụng ngoài đồng được coi là một phần của việc tu hành, chư Tăng, Ni phải làm ruộng, học giáo lý và tu tập thiền.

Tại Thái Lan thì lại khác, vì lời hứa khi thọ giới là không cất giữ tiền bạc được thi hành triệt để, nên cư sĩ Phật tử không những chỉ cung cấp tứ sự cúng dường gồm nơi ở, y phục, thực phẩm và thuốc men, mà còn nhận lãnh luôn cả những việc lao động khác trong tu viện, để giúp chư tăng ni chuyên tâm tu hành.

Tại Châu Á, chư Tăng, Ni thường được giới cư sĩ Phật tử kính trọng và săn sóc chu đáo, vì Phật tử tại những nơi đó vốn có truyền thống tôn quý Phật pháp. Dù là vậy, tu sĩ nên tự coi mình như những người phục vụ, để không trở thành kiêu ngạo khi được Phật tử cung kính cúng dường. Nếu tu sĩ lại nổi lên tâm kiêu ngạo khi hưởng sự cung kính, thì đường tu của chính họ lại bị thoái hóa.

Tại phương Tây thì mối quan hệ giữa giới tu hành và giới cư sĩ vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng dân chủ, và ít phân chia giai cấp, vốn sẵn có trong bản chất của các xã hội Tây Phương. Như thế cũng có điều lợi, mà cũng có điều bất lợi. Thí dụ, người tu sĩ Tây Phương không luôn luôn được tu viện, hoặc nơi họ cư ngụ, cung cấp đầy đủ về mặt tài chính, cho các chi phí trong đời sống. Kết quả là có những Tăng Ni phải kiếm thêm việc làm bên ngoài, để có đủ tiền chi tiêu cho những nhu cầu cần thiết của bản thân. Có người kiếm đủ sống qua ngày, nhưng khi ốm đau, hoặc muốn đi tầm sư học đạo, hoặc tham dự những khóa thiền thất, thì họ sẽ gặp khó khăn về chuyện tiền bạc.

Hỏi: 

– Xin cho biết làm thế nào để tìm một vị thày tâm linh, và có cần thiết không?

Ni Sư Thubten Chodron trả lời:

– Có được một, hoặc nhiều vị thày tâm linh đức độ hướng dẫn chúng ta tu tập, là một điều rất hữu ích. Trong khi kinh sách có thể cho chúng ta biết những dữ kiện, vị thày tâm linh có thể trực tiếp giải đáp những thắc mắc nổi lên trong tâm chúng ta, và chỉ dẫn chúng ta cách thức ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Chúng ta có thể theo học nhiều vị thày, tuy thế, có thể chỉ một trong số đó là thày chính, bậc thày mà chúng ta hoàn toàn tin cậy.

Tìm một bậc thày tâm linh có đức độ, đầy đủ đạo hạnh là bổn phận của chính mình. Chúng ta càng phải thận trọng hơn trong tình trạng thực tế tại Tây Phương ngày nay, nơi có thể gọi là “chợ tâm linh”. Không phải tất cả mọi người dạy đạo đều biết họ phải làm gì, hoặc ngay cả đến chính họ có đủ đạo đức hay không nữa. Chúng ta phải biết rõ về họ, trước khi tôn họ là thày mình.

Muốn vậy, chúng ta nên tham dự nhiều buổi giảng pháp của nhiều vị thày khác nhau, quan sát kỹ thái độ của họ, nghiên cứu nội dung và giá trị của những điều họ giảng dạy, rồi hãy quyết định trong sự thận trọng.

Hỏi:

– Khi đi tìm thày tâm linh, chúng ta cần đến những phẩm chất gì nơi họ? 

Ni Sư Thubten Chodron trả lời:

– Những phẩm chất của bậc thày xứng đáng là cách hành xử có đạo đức, giầu kinh nghiệm về thực hành các phương pháp tu tâm, và thấu hiểu Tánh Không. Họ phải thâm nhập kinh tạng, có thể dạy nhiều chủ đề về Phật pháp, và có mối liện hệ chặt chẽ với thày của chính họ. Động cơ đi dạy của họ phải là vì họ muốn giúp học trò thấu hiểu giáo pháp, chứ không phải vì mong được cúng dường, hoặc muốn được nổi danh. Bậc thày phải có lòng từ bi, kiên nhẫn và cố gắng giúp đệ tử của họ, dù những người này có thể đã gây ra nhiều lỗi lầm. Những bậc thày đạo hạnh chỉ giảng dạy đúng theo chánh pháp, không xuyên tạc ý nghĩa kinh Phật, để lôi cuốn đệ tử hoặc để kiếm thêm tiền cúng dường.

Hỏi:

– Thày tâm linh có thể là cư sĩ được không?

Ni Sư Thubten Chodron trả lời:

– Thày tâm linh có thể là tu sĩ hoặc cư sĩ, cũng đều được cả. Tuy nhiên, cư sĩ thường có gia đình, trong khi tu sĩ luôn luôn là độc thân. Tìm thày tâm linh, chúng ta nên lưu tâm đến vị nào xứng đáng làm gương tốt cho chúng ta, và noi theo hành vi đạo đức của họ mà hành xử. 

Hỏi:

– Xin cho biết “hành thiền” là gì?

Ni Sư Thubten Chodron trả lời:

– Ngày nay khi nói đến “hành thiền”, đôi khi người ta bị lẫn lộn với những sinh hoạt khác. Hành thiền không chỉ có nghĩa đơn giản là làm thư giãn thân và tâm. Cũng không có nghĩa là đắm mình trong những sự tưởng tượng như mình là người thành công với một tài sản vĩ đại, có mối quan hệ tốt đẹp, có danh vọng và được mọi người ca ngợi. Đấy chỉ là sự mơ mộng viển vông về những dính mắc vào của cải vật chất.

Hành thiền cũng không phải là ngồi xếp bằng theo kiểu kiết già, lưng thẳng tắp như mũi tên với gương mặt tỏa nét nghiêm nghị thần thánh. Hành thiền là hoạt động của tâm. Dù thân thể có dáng ngồi đúng phương pháp, tuyệt đẹp, mà tâm rong ruổi chạy theo những tư tưởng linh tinh, tham, sân, si, thì cũng không phải là đang hành thiền.

Hành thiền cũng không phải là tập trung tư tưởng, như chúng ta có thể có trạng thái này khi vẽ tranh, đọc sách, hoặc làm việc gì mà chúng ta thấy thích thú. Hành thiền cũng không phải là chỉ đơn giản nhận biết mình đang làm gì vào những lúc đặc biệt nào đó. 

Hành thiền để chuyển hóa tư tưởng và nhận thức, để tăng trưởng lòng từ bi và thích ứng với thực tại của đời sống.

Hỏi:

– Xin cho tôi biết muốn hành thiền thì phải làm gì và hành thiền có lợi ích gì?

Ni Sư Thubten Chodron trả lời:

– Hiện nay, trong lãnh vực tu tập về tâm linh, chúng ta có rất nhiều thày dạy hành thiền. Nhưng chúng ta phải tìm hiểu kỹ, đừng hứng khởi một cách vội vã mà gia nhập ngay vào bất cứ cái gì. Phải rất thận trọng.

Có những người nghĩ rằng họ có thể sáng chế ra cách tu thiền của riêng họ, không cần phải học từ một bậc thày lão luyện. Đó là điều thiếu khôn ngoan. Muốn hành thiền, trước nhất chúng ta phải được hướng dẫn bởi một vị thày giầu kinh nghiệm, xứng đáng làm thày. 

Hành thiền tạo thói quen tốt cho tâm chúng ta, thái độ sống của chúng ta đối với cuộc đời sẽ từng bước chuyển hóa. Chúng ta sẽ giảm dần sự giận dữ và sẽ giải quyết những công việc cần phải suy nghĩ, cân nhắc, một cách sáng suốt hơn. Những sự bất mãn và căng thẳng thần kinh cũng từ từ giảm thiểu. Những kết quả này chúng ta có thể nhận ra ngay sau mỗi buổi hành thiền. Nhưng chúng ta nên có những động cơ để hành thiền cao cả và rộng lớn, hơn là chỉ vì niềm vui và hạnh phúc của riêng mình. Nếu chúng ta muốn hành thiền để giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, hoặc với mục tiêu đạt được sự triệt ngộ (triệt ngộ là giác ngộ triệt để như đức Phật), để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, thì hiển nhiên là tâm trí chúng ta sẽ thấy an lạc ngay. Và rồi chúng ta sẽ có thể đạt được những mục tiêu cao cả đó.

Giữ được thời khóa biểu hành thiền thường lệ hằng ngày, dù mỗi ngày chỉ có thể tu tập một thời gian ngắn, cũng là thói quen tốt, sẽ mang lại rất nhiều lợi ích. 

Có người nghĩ rằng: 

– “Mỗi ngày ta đều quá bận rộn với công việc ở sở làm, với gia đình ở nhà, và với những công việc giao tế ngoài xã hội, nên ta không thể hành thiền. Hãy cứ để đó, đến khi nào lớn tuổi, công việc giảm bớt rồi, ta hãy tính sau. Hành thiền là việc của các Tăng Ni, đâu phải của mình”. 

Xin đừng nghĩ vậy, quá sai rồi. Nếu hành thiền giúp ích chúng ta, thì hằng ngày chúng ta nên dành thì giờ để thực tập. Dù chúng ta không thích tọa thiền, cũng nên cố gắng dành chút thì giờ mỗi ngày để tĩnh tâm, là điều cần thiết. Mỗi ngày, chúng ta nên dành ra chút thì giờ, ngồi lặng lẽ, quán chiếu lại những việc mình làm trong ngày, và tìm coi vì lý do gì mình đã làm như thế, hoặc xem sách về giáo pháp, hoặc tụng đọc kinh Phật. Muốn được hạnh phúc, chúng ta phải sống hài hòa với mọi người, và an lạc trong bầu không khí tịch mịch, một mình.

Cần có những khoảng thời gian tĩnh lặng, nếu được vào buổi sáng, khi chưa khởi sự làm các công việc thường ngày thì tốt, nhất là trong đời sống của những xã hội văn minh tân tiến hiện nay, nơi mà con người ta thật sự là quá bận rộn.

Chúng ta luôn luôn có thì giờ để săn sóc thân thể. Thỉnh thoảng chúng ta nhịn ăn vì biết rằng cơ thể cần thiết điều đó. Thì cũng như vậy, chúng ta nên dành ra đôi chút thì giờ để săn sóc tâm trí và trái tim, bởi vì chúng quá quan trọng đối với sự nhận thức, cảm xúc và sức khỏe của chúng ta.

Tóm lại, tâm trí chứ không phải là thân xác của chúng ta, sẽ là động lực tiếp nối trong những kiếp tương lai của chúng ta, đem theo với nó là nghiệp lực, dấu ấn của những hành động mà chúng ta đã gây ra trong cuộc đời này. Hành thiền Phật giáo không phải là chúng ta làm lợi ích cho đức Phật, nhưng vì sự tiến bộ của chúng ta. Phật pháp dạy cách làm thế nào để tạo nguyên nhân của hạnh phúc. Và vì rằng tất cả chúng ta đều mong mỏi được hưởng hạnh phúc, chúng ta nên hành trì Phật pháp càng nhiều càng tốt. 

Trích Thư viện Hoa Sen

Buông Xả Hận Thù

 Hỏi:

…”… Là một cựu quân nhân trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã chiến đấu tại các chiến trường để bảo vệ nền tự do cho miền Nam Việt Nam. Khi miền Nam sụp đổ, tôi bị bắt đi tù, được gọi một cách văn hoa là đi cải tạo. Ở đó, hằng ngày ngoài chuyện làm việc cực nhọc, chúng tôi còn phải nghe những lời lăng mạ của các người quản trại, rằng chúng tôi là những kẻ phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang. Do hiểu biết nông cạn, nên họ không hiểu được thực tế, rằng cuộc chiến của nước Việt Nam là chiến tranh ý thức hệ, giữa hai khối tự do và cộng sản. 

Được đi theo diện HO sang đây, do có điều kiện nghiên cứu kinh sách nhà Phật, đôi khi tôi lại cảm thấy thương xót cho những cai tù khi xưa, những kẻ vì ngu dốt mà tạo nghiệp ác với anh em tù nhân chúng tôi. Những lúc ấy, lòng tôi nhẹ nhõm, không còn oán hận họ nữa.

Tôi rất muốn buông xả, tha thứ cho họ, theo lời đức Phật đã dạy: “Oán chỉ nên cởi, không nên thắt”, và “Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan, lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng”.  Nhưng càng gần ngày kỷ niệm miền Nam xụp đổ, thì lòng tôi lại bồn chồn uất ức, nghĩ tới biết bao nhiêu là cảnh cũ, người xưa. 

Vậy tôi có nên buông xả hay không? Muốn buông xả thì làm sao cho tôi quên được biết bao nhiêu chuyện đau lòng mà buông? …

(PVK)

Đáp:

Hằng năm, cứ vào khoảng thời gian miền Nam xụp đổ, là cuối tháng Tư dương lịch, thì không riêng gì ông Khang thấy lòng bồi hồi buồn bã, mà hầu như hết thẩy chúng ta, những người phải bỏ quê cha đất tổ ra đi để tìm tự do, đều cùng chung nỗi bồi hồi buồn bã như nhau. Mặc dầu ba chục năm đã trôi qua, thế hệ những người có nhiều kỷ niệm với miền Nam thuở xưa, vẫn thấy mọi chuyện như mới xảy ra, và vết thương lòng vẫn như là còn đang nhức nhối. 

Vậy thì liệu chúng ta có thể quên được những kỷ niệm xưa không? Và có cần phải quên không? Đấy cũng là những mối ưu tư trong đời sống, cần được tìm hiểu.

Trong đời, chúng ta có rất nhiều câu hỏi, và mỗi câu hỏi cũng lại có nhiều câu trả lời khác nhau, tùy theo môi trường sống, hoàn cảnh cá nhân, văn hóa, xã hội, vân vân… Vì thế, những câu trả lời cũng đều chỉ là những quan điểm tưong đốikhông phải là chân lý tuyệt đối, dùng chung cho tất cả mọi người.

Đạo Phật cũng trôi chảy trong dòng sống của nhân loại, cũng có nhiều câu hỏi và giải đáp khác nhau cho hành giả trên đường tu tập. Là một đạo sư, đức Phật hiểu rất thấu đáo điều này. Ngài hiểu rằng tâm mỗi chúng sinh đều có những đặc điểm riêng, do đó, những thắc mắc cũng cần có những giải đáp khác nhau, cho nên đã chỉ ra nhiều cách tu tập, để đáp ứng với nhu cầu luyện tâm của nhiều người.

Cốt tủy của đạo Phật là tu hành để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Đây là kinh nghiệm bản thân của đức Phật, sau khi tu hành khổ hạnh qua nhiều phương pháp, một buổi sáng, khi sao Mai mọc, Ngài bừng tỉnh ngộ, nhận ra được rằng “Tất cả chúng sinh đều có Tri Kiến Phật như Ngài, chỉ vì vô minh che khuất, nếu tu tập thì sẽ bừng tỉnh, giác ngộ như Ngài”.

Đó là thông điệp của đức Phật khi giác ngộ, thành Phật. Phật có nghĩa là giác ngộ.

Từ sự giác ngộ của Ngài, đạo Phật ra đời. Mục tiêu của người tu đạo Phật là giác ngộ thành Phật để cứu độ chúng sinh như đức Phật đã tu và đã thành tựu. Thành phần này là những người xuất gia, còn được gọi là những Trưởng Tử Như Lai. Để có thể đạt được kết quả rốt ráo, các vị này thường tới những khu rừng sâu, núi cao, xa lánh hẳn chuyện đời, để thanh lọc tâm linh. Đó là các vị hành giả quyết tâm bước trên đường giác ngộ giải thoát, để có khả năng cứu độ muôn loài chúng sinh như đức Phật, ngay trong kiếp sống này. 

Đối với các vị này thì:

 “Quá khứ qua rồi  
Tương lai chưa tới  
Hãy nên tỉnh thức 
Sống trong hiện tại 
Vững chãi thảnh thơi”.

Do đó, các pháp môn họ tu đều với mục tiêu dẹp trừ vọng tưởng Tham Sân Si, buông bỏ kỷ niệm xưa, tình cảm cũ, quay lưng lại quá khứ. Quý vị này được Phật tử tôn là bậc trượng phu, đã vượt lên trên những chân lý tương đối, có tính cách quy ước của từng nhóm người, từng cộng đồng, vốn là nguyên nhân sâu xa của chiến tranh. Hành động của người tu giải thoát phải phát xuất từ tâm Đại Bi, bình đẳng, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nếu có việc làm nào, mà động cơ là Tham Sân Si, thì người tu sĩ đó chưa giữ đúng lời nguyện khi xuất gia. Mang tâm nguyện độ sinh bước vào cửa Không, người tu sĩ trên đường tiến tới giác ngộ giải thoát, coi danh lợi và vinh hoa phú quý chỉ như đôi dép rách, thẳng tay liệng bỏ. Đấy là mục tiêu cốt tủy của con đường tu theo đạo Phật.

Nhưng không phải tất cả mọi Phật tử đều có khả năng làm được việc đó. Và cũng không phải tất cả Phật tử có lòng muốn tu tập, đều muốn tu một cách tích cực, dẹp bỏ tất cả mọi lôi cuốn của thế gian như vậy.

Cho nên ngoài giới xuất gia tu hành để giải thoát ngay trong kiếp sống này, còn có Phật tử cư sĩ tu hành tại gia. Với Phật tử cư sĩ tại gia thì lại có quy chế khác với người xuất gia. Vì cư sĩ đang sống trong đời thường, phải có bổn phận với gia đình, tổ tiên, non sông, đất nước, phải duy trì nếp sinh hoạt với cộng đồng dân tộc. Người cư sĩ tuy cũng có những tu tập tâm linh, nhưng phải giữ được sự quân bình đối với đời sống xã hội.

Mỗi xã hội lại có những quy định cho các thành viên. Thí dụ như ở Việt Nam khi xưa, thanh niên tới hạn tuổi phải đi quân dịch để bảo vệ tổ quốc, trong khi tu sĩ thì được miễn dịch, vì họ có nếp sinh hoạt khác biệt. Trước những nhiệm vụ đối với gia đình và tổ quốc như vậy, mọi con dân đều có những ràng buộc với cộng đồng, không thể tự do phóng khoáng như tu sĩ được. 

Như vậy, nếp sinh hoạt của cư sĩ đã khác với tu sĩ, cho nên sự buông xả cũng có những mức độ khác nhau.

 Khi đức Phật phát biểu về quyền sống, về sự bình đẳng, Ngài nói đến “chúng sinh”, chứ không phải chỉ nói đến “nhân loại”, lại càng không phân biệt quốc gia, dân tộc. Cuộc đời Ngài là giáo hóa để mưu cầu hạnh phúc và an lạc cho toàn thể chúng sinh. Ngay đối với tính mạng những sinh vật nhỏ nhít, như con sâu, cái kiến, Ngài cũng khuyên chư đệ tử vào mùa côn trùng sinh sản, nên giảm thiểu sự đi lại để tránh giẫm đạp lên, khiến chúng phải bỏ mạng.

Nhưng đối với chúng ta là những người dân thường, dù là Phật tử, chúng ta vẫn đang sống trong thế giới tương đối, có phải, trái, tốt, xấu, vân vân, theo quy ước của cộng đồng. Chúng ta có nhiệm vụ phải hoàn tất các bổn phận mà cộng đồng quy định, có cái nhìn phân biệt về quốc gia, dân tộc, vân vân… Trên quan điểm này, quá khứ là gia tài chung của những người cùng truyền thống, cùng kỷ niệm, có những vui, buồn, vinh, nhục chung, không thể xóa nhòa ký ức, không thể quên được.

Không thể quên, nhưng chúng ta có thể buông xả bớt những nỗi niềm đau khổ ra khỏi tâm tư, để trước nhất là cứu tâm chúng ta cho bớt nhức nhối, sau là có thể dùng những sinh lực, đáng lẽ tiêu hao trong việc gậm nhấm những cảm xúc đau đớn, chuyển qua những công việc ích lợi hơn.

Nhà Phật cho là “Tâm tạo thiên đường, Tâm tạo địa ngục”. Suốt cả cuộc đời giáo hóa chúng sinh, đức Phật chỉ dạy chuyển tâm. Đó là thông điệp ”Oán chỉ nên cởi, không nên thắt”, và “Lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan, lấy oán báo oán, oán ấy chập chùng”. 

Đối với quá khứ, cfhúng ta không cần phải quên, mà nên ghi chép lại trong lịch sử của dân tộc, để lưu truyền cho thế hệ sau. Quá khứ cho ta những bài học của lịch sử, mà nhờ có những bài học này, người đời sau có thể rút tỉa kinh nghiệm, để từ đó, có những quyết định sáng suốt, tốt đẹp hơn. Như vậy, kỷ niệm quá khứ sẽ đem lại những chuyển hóa tích cực cho tương lai. 

Tuy nhiên, chúng ta nên phân biệt giữa ghi nhớ và căm thù. Ghi nhớ để có kinh nghiệm mà do đó, làm được những việc có ích cho đời thì tốt. Nhưng ghi nhớ để nổi lên lòng căm thù thì không đúng với lời Phật dạy. Lòng thù hận sẽ đem lại cho mình và cho người những nỗi đau khổ không bao giờ chấm dứt được. Trước nhất là lòng thù hận trói buộc mình trong những cảm xúc tiêu cực, không an lạc. Để trong tâm sự thù hận, nhãn quan sẽ bị thu hẹp. Đó là lý do nhà Phật khuyên chúng ta nên buông xả.

Lịch sử các cuộc tàn sát vì cuồng tín ghi rằng, đã nhiều lần người theo đạo Hồi tấn công đạo Phật, bằng những cuộc thảm sát đẫm máu. Điển hình như cuộc tấn công năm 1197, được mô tả như sau:

 …”… Đạo quân Hồi giáo xông xáo vào đất Phật tại Ấn Độ. Những lưỡi kiếm vung lên loang loáng, chém bay tất cả những cái đầu cạo trọc (ám chỉ đầu các tu sĩ Phật giáo). Tội ác giết người được hoàn tất chu đáo đến nỗi, khi kẻ chiến thắng muốn tìm một người có thể đọc và giải thích kinh sách nhà Phật, tại nơi cất giữ kinh của các tu viện, thì không còn tìm ra nổi, dù là chỉ một người sống sót, có khả năng đọc được sách nữa. Tất cả đã bị giết hết. Cuộc tàn sát ráo riết tới tận gốc. Do cuộc chém giết man rợ này, Hồi giáo đã nhổ tận gốc đạo Phật tại Ấn Độ”

Không riêng tại Ấn Độ, người Hồi Giáo đã tàn sát Phật tử tại nhiều vương quốc miền Trung Á vốn theo đạo Phật, thí dụ Afghanistan, nơi Phật giáo đã có một thời được phổ biến rất rộng rãi, điển hình là đã có hai pho tượng khổng lồ được xây dựng từ mấy ngàn năm nay, mà chúng ta mới được biết gần đây, khi quân Taliban phá hủy hai pho tượng này, khiến cho cả thế giới phải xúc động. Có thể nói 300 năm trước Tây lịch, dưới triều đại Asoka, Phật giáo đã vượt khỏi biên giới Ấn Ðộ, và phát triển rộng về phiá Nam, phiá Ðông và Tây Ấn Ðộ. Phía Tây Bắc, Phật giáo du nhập vào các vùng Gandhara, Pakistan và Afghanistan. Ở thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, một vùng đất rộng lớn bao gồm Bắc Ấn, Gandtara, Afghanistan cho tới thung lũng sông Tarim do hoàng đế Kaniska cai trị. Vị vua này là một tín đồ Phật giáo, dưới triều đại của ông, đã tổ chức kết tập kinh điển lần thứ IV ở Kashmir và cũng chính nhà vua đã cử những vị cao tăng đem Phật giáo đến các vương quốc như Hy Lạp, Ai Cập, Syria… Nhưng tất cả những khu vực theo Phật giáo này đã bị người Hồi giáo tàn sát, đập phá chùa chiền, tu viện, thư viện với những kho tàng văn hóa Phật giáo. Trước lưỡi kiếm tàn sát hung bạo, những người Phật tử hiền lành, hiếu hòa, bất bạo động, đã chạy tan tác đi lánh nạn tại các nước như Nepal, Trung Hoa, Tây Tạng, vân vân…

Là một nhà lãnh đạo đất nước Tây Tạng, một đất nước mà dân chúng hầu hết theo Phật giáo, hẳn đức Đạt Lai Lạt Ma biết rõ về những cuộc tàn sát đạo Phật của Hồi giáo. Thế nhưng, trong buổi hội nghị mang tên “A Gathering of Hearts Illuminating Compassion”  tại San Francisco, từ ngày 10 tháng Tư đến ngày 16 tháng Tư năm 2006, gồm có khoảng 500 nhà lãnh đạo và học giả thuộc nhiều tín ngưỡng, của khoảng 30 quốc gia trên thế giới, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phát biểu: “Ngày nay, theo ý một số người, Hồi giáo có vẻ như bị coi là hiếu chiến. Tôi cảm thấy rằng điều đó hoàn toàn không đúng. Hồi giáo, cũng như các truyền thống tôn giáo khác, cũng dạy tín đồ về sự tử tế, về lòng trắc ẩn, về sự giúp đỡ những người nghèo khổ, vân vân…”….

Ngài nói với cử tọa rằng, nhiều người đã thấy và nghe nói về những cuộc nổ bom tự sát, phần lớn xảy ra tại các nước Hồi giáo, mà không nghe nói về những người Hồi giáo đi làm việc thiện, giúp đỡ người nghèo. Ngài nói rằng tất cả mọi người đều có khuynh hướng bạo động, nếu bản thân bị mất bình tĩnh, và chúng ta không nên căn cứ vào hành động của một số người, mà phán xét cả một tôn giáo, vì “Ở đâu cũng có những kẻ phá hoại”. Ngài cũng kêu gọi cử tọa, là những nhà lãnh tụ tôn giáo và các học giả tôn giáo, cần phải làm việc tích cực hơn để tạo một thế giới sống chung hòa bình.

Những điều Ngài nói đều có cơ sở thực tế, thí dụ tổ chức Rahima Foundation của người Hồi giáo đã nhận được huy chương Human Relations Award of California’s Santa Clara County vì đã có công tặng y phục, thực phẩm và những vật dụng cần thiết cho những người kém may mắn tại Santa Clara và các vùng phụ cận từ năm 1993. Tại những vùng như Sacramento, New York, Philadelphia, Chicago, Detroit, Tampa Bay, vân vân, các bác sĩ Hồi giáo tại địa phương đã cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho những bệnh nhân không có bảo hiểm. Và qua những tổ chức như Habitat for Humanity, các thiện nguyện viên Hồi giáo đã hy sinh thời giờ và khả năng kỹ thuật của họ, để xây dựng nhà cửa cho những người vô gia cư, vân vân … 

Lời kêu gọi của Ngài được nhiều người có tấm lòng rộng mở hoan hỉ đón nhận. Nhưng cũng có một số người, ngay cả Phật tử, phản đối, cho là Ngài quá khoan hòa với Hồi giáo.

Như chúng ta đã thấy, hẳn là Ngài biết rất rõ về những nỗi thống khổ, những tai hại do Hồi giáo gây ra cho đạo Phật. Thế nhưng, là một Phật tử chân chính, Ngài không nhìn sự việc bằng cảm tính, theo kiểu vơ đũa cả nắm. Chúng ta cũng thấy rằng không phải tất cả người Hồi giáo đều xấu. Trong số những người Hồi giáo, có rất nhiều người tốt lành. Họ cũng tốt lành như chúng ta, mà lại còn đáng buồn hơn chúng ta, vì bị mọi người hiểu lầm, nên ghét lây tới họ. 

Chắc chắn Ngài không quên những đau thương mà người Hồi giáo đã đem lại cho Phật giáo trong quá  khứ, nhưng là một Phật tử sáng suốt, Ngài nhìn những kiếp người đang sống trên thế giới này bằng con mắt Tâm, con mắt thấu triệt được những đau thương khốn khổ, mà mọi người phải chịu đựng, nếu nhân loại cứ tiếp tục thù hận nhau, chiến tranh cứ liên miên xảy ra khắp thế giới.

Trong cuốn The Art of Happiness, a Handbook for Living, đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói:

…“… Sự tai hại của lòng thù hận thật là hiển nhiên, rõ ràng và trực tiếp. Thí dụ, khi trong lòng bạn nổi lên một cảm giác ghét ai đó, thì ngay lập tức, cảm giác ghét đó tràn ngập tâm trí bạn, và nó làm tan biến cảm giác an lạc trong tâm bạn ngay lập tức. Nó cũng khiến cho tâm bạn không còn sáng suốt, tỉnh thức được nữa. Ngay khi sự nổi giận và ghét bỏ xuất hiện, nó phá hủy phần tốt đẹp nhất của tâm trí, phần mà nhờ nó, bạn biết được sự đúng và sai, sẽ gây ảnh hưởng vào phản ứng của bạn ngay lúc đó và trong tương lai của bạn. Khả năng phán xét của bạn bị đình chỉ, không còn làm việc nữa. Bạn sẽ giống như người bị mất trí. Như vậy,sự giận dữ và thù ghét có khuynh hướng làm cho bạn bị mất tỉnh táo, khiến cho những khó khăn mà bạn đang gặp càng trở nên tệ hại hơn...”… 

Một trong những con đường tu tập của Phật giáo Đại Thừa là Bồ Tát Đạo. Hạnh nguyện Bồ Tát là hy sinh bản thân để cứu độ chúng sinh. Có câu hỏi đặt ra là: “Nếu tại khu rừng kia có con cọp rất dữ, đã ăn thịt nhiều người. Có một võ sĩ tu theo hạnh Bồ Tát, có khả năng giết con cọp đó. Nhưng giết cọp thì phạm vào giới sát. Vậy phải làm sao?”

Câu trả lời cho người đi trên Bồ Tát Đạo là dùng con mắt Tâm, con mắt “cứu khổ chúng sinh” để chỉ đạo. Giết cọp sẽ cứu được nhiều chúng sinh khỏi chết, hành giả Bồ Tát Hạnh sẽ rất thương xót mà đành phải xuống tay chấm dứt cuộc đời con cọp, để cứu nhiều mạng sống, và sẵn sàng chấp nhận sẽ phải trả quả báo do hành động sát sinh, dù động cơ sát sinh nảy ra do lòng từ bi của mình.

Người Phật tử tu theo đúng lời dạy của đức Phật, trước mỗi hành động phải luận coi động cơ là vì lòng từ bi, vì chúng sinh, hay vì tham sân si cho cá nhân mình. 

Cuộc đời luôn luôn đem tới cho chúng ta những câu hỏi. Chỉ có con mắt Tâm, con mắt của lòng từ bi là có thể giúp chúng ta trả lời một cách sáng suốt mà thôi.

Trích Thư viện Hoa Sen

Địa Ngục ở đâu ?

Ý niệm về địa ngục được hình thành từ thời cổ xưa, xuất hiện cùng với ý niệm về ông Trời, về Thượng Ðế, về các loại Thánh Thần vân vân. Hầu hết các tôn giáo đều nói đến những sự thưởng phạt sau khi chết, được thưởng thì được sinh lên thiên đường hưởng phước, bị phạt thì bị đầy xuống địa ngục chịu tội. Thời trước người ta tin là trái đất vuông, mặt đất bằng phẳng, cho nên thiên đường được giới thiệu là ở cao tít trên mây, và địa ngục ở dưới sâu trong lòng đất. Lý do để được thưởng hay bị phạt thì tùy theo luật lệ của mỗi tôn giáo quy định.

Suốt chiều dài của lịch sử loài người, hình ảnh về thiên đường và địa ngục đã giúp những bậc trưởng thượng trong các bộ lạc, làng mạc, thôn xóm, gia đình, như là một trợ huấn cụ đắc lực để răn đe con cháu khỏi làm điều sai trái.

Sau này, khi các tổ chức tôn giáo hình thành, thì vai trò thiên đường và địa ngục lại càng đắc lực hơn, trong việc tạo ấn tượng về thưởng phạt, về nỗi khiếp sợ sẽ bị đầy xuống địa ngục nếu trái lệnh, hoặc sự cứu rỗi nếu người tín đồ vâng lời, khiến cho từ trong tiềm thức, người ta tin chắc rằng cần phải có một nơi để bấu víu, để nương tựa sau khi chết, nếu không sẽ phải chịu muôn vàn khốn khổ, thiêu đốt vĩnh viễn trong địa ngục.

Có niềm tin cho là sau khi con người chết đi, linh hồn xuống tới âm phủ, thì “quỷ thần hai vai” của người ấy sẽ đem tất cả công và tội của họ tâu lên vua Diêm Vương để ông ta quyết định sự thưởng phạt, hoặc cho lên trời hưởng phước, hoặc đầy vào các loại địa ngục mà tên gọi thường là rất rùng rợn, tùy theo sáng kiến của người phát minh.

Ðạo Phật không tin chuyện quỷ thần hai vai và ông Diêm Vương nào đó lại có thể quyết định vận mạng của ai được. Nền đạo đức Phật giáo không xây dựng trên sự thưởng phạt ở thiên đường hoặc địa ngục, do các Thần Linh áp đặt, mà lấy quy luật nhân quả làm căn bản.

Tâm lý học của đạo Phật cho rằng tất cả những việc mà mỗi dòng đời tạo ra, trải dài theo cuộc hành trình trong thế giới hiện tượng tương đối này, là những hạt giống, hay còn gọi là chủng tử thiện hoặc ác, trong tương lai khi hội đủ cơ duyên, sẽ nẩy nở thành những thiện quả hoặc ác báo, đều chứa tại Thức Thứ Tám, còn gọi là Tàng Thức hoặc A Lại Da Thức, của chính dòng sinh mạng đó. Thức này là lớp Vọng, cũng mênh mông như Chân Tâm, tạm ví như làn sóng điện trong không gian.

Những chủng tử thiện hoặc ác này sẽ xuất hiện vào giây phút lâm chung, để quyết định cảnh giới tái sinh của đương sự, nhà Phật gọi là “gió Nghiệp cuốn đi tái sinh”. Một số người có kinh nghiệm về cận tử (near death experience) kể lại đại khái rằng vào cái lúc họ cảm thấy muốn ngừng thở, bỗng nhiên trước mắt nổi lên một cảnh tượng tràn ngập không gian, cả quãng đời quá khứ, những việc làm khiến cho họ rất sung sướng hoặc rất đau khổ, xuất hiện như là đồng thời. Họ cảm thấy như trong giấc mơ, như là hình ảnh của ký ức. Ðối với quan điểm của nhà Phật thì đó là giây phút mà một người có thể nhìn thấy được chính cái kho chứa các nghiệp nhân, tức là Tàng Thức của mình.

Chiếu theo thành quả tự tu, tự giác ngộ lại Bản Thể của đức Phật, người Phật tử không tin vào sự cứu rỗi do bên ngoài mang đến, mà tin vào chính mình, theo gương sáng của đức Bổn Sư. Trong đời sống, người Phật tử từng bước chuyển hóa tâm, từ xấu ác trở thành lành thiện, đó là giai đoạn chuyển hóa tương đối. Sau đó sẽ bước qua giai đoạn cốt tủy của quá trình tu chứng là “thanh tịnh hóa tâm”, vượt lên trên những khái niệm thiện và ác tương đối, chỉ còn lại tâm Từ Bi và Trí Tuệ Bình Ðẳng, hóa giải tam độc Tham Sân Si, vốn là căn bản trói buộc con người vào vòng sinh tử. Từ đây dòng sinh mệnh được hoàn toàn giải phóng, đạt được mục tiêu tối cao của con đường tu Phật, là Toàn Giác.

Có câu chuyện ẩn dụ về sự tự tu, tự độ như sau:

“Trong khu vườn kia có một nhóm thiền sinh đang đứng chung quanh vị thiền sư. Góc vườn là một con cọp bị trói. Thiền sư hỏi đám học trò:

– Có ai biết cách cởi trói cho con cọp không?

Ðám thiền sinh góp ý, người thì bàn “lấy tấm lưới chụp nó”, người thì bảo ”xông thuốc mê cho nó”. Cuối cùng, một thiền sinh ung dung:

– Cứ bảo người nào đã trói được nó, thì chính người đó mở trói cho nó là xong.”

Câu chuyện nói lên tính chất của quy luật nhân quả, người nào tạo nhân thì người đó lãnh quả, người nào ăn thì người đó no, người nào tu hành thanh tịnh hóa tâm thì người đó giác ngộ.

Như thế về căn bản, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi, mà tin lời Phật tuyên bố khi mới thành đạo: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, và câu di huấn khi Ngài sắp nhập cảnh giới Niết Bàn: 

“Mọi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. 

Ðuốc ở đây là đuốc Tuệ, là ngọn đèn trí tuệ mà đức Phật đã giơ cao, nay còn nằm trong kinh điển, mỗi người đều cần phải “tự học, tự tu, tự giác thành Phật”.

Tuy nhiên, trên con đường giáo hóa chúng sinh từng bước, đạo Phật đi trong nhân gian thường dùng những phương tiện đã sẵn có của người dân địa phương để truyền bá tư tưởng nhà Phật, theo tôn chỉ “tùy duyên mà bất biến”, dùng bình địa phương đựng thuốc Phật giáo, khiến cho mọi người đều được thấm nhuần tư tưởng từ bi hỷ xả mà không cảm thấy nền văn hóa truyền thống của họ bị xúc phạm. Thí dụ tượng ảnh đức Phật khi ở Ấn Ðộ thì gầy gò, nghiêm túc, đúng là hình ảnh người tu khổ hạnh. Sang tới Mỹ, tại tu viện Shasta trên sườn núi Shasta, nơi có trên sáu chục vị sư người Tây Phương từ các tôn giáo khác chuyển qua đạo Phật đang tu hành, thì tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lại giống hệt tượng Ðức Mẹ. Trong khi đó, tượng ảnh Phật và chư Bồ Tát bên Trung Hoa thì lại mập mạp, hơi mỉm cười, đượm vẻ từ bi, cảm thông với chúng sinh, theo truyền thống hiếu khách của người Á Đông là “đem lại niềm vui cho nhau”.

Tóm lại, đạo Phật cũng nói về thiên đường và địa ngục, nhưng với ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.

Từ quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” nói trong kinh Hoa Nghiêm, thiên đường và địa ngục dưới mắt người Phật tử chính là những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua hằng ngày.

Nếu con người không chế ngự được ba thói xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi trong sự bon chen, tính toán lợi mình hại người, thì tâm hồn không được an lạc, mà phiền não triền miên, ăn không ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những bực bội bất mãn gặp phải hằng ngày, đó cũng đã được coi là cảnh giới địa ngục của tâm thức rồi.

Trong kinh Ðịa Tạng, chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới địa ngục. Vì “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh giới trong kinh Ðịa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức. Ðịa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Ðịa, là Ðất Tâm.

Nhà Thiền có câu “Ðất Tâm nếu trống không thì mặt trời Trí Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa tâm”, khiến cho Ðất Tâm trống không, thí Trí Tuệ Bình Ðẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Ðịa Tạng đã phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi.

Còn như nếu Ðất Tâm mà ô nhiễm quá, thì vào giờ phút lâm chung, do nghiệp thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.

Quan điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên thế gian là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển thì tất cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm. Cho nên, đối với nhà Phật, không có cảnh giới địa ngục vĩnh viễn.

Mỗi người đều có thể tự ra khỏi địa ngục bằng sự “thanh tịnh hóa tâm” của họ. Ðó là niềm hy vọng về giải thoát của tất cả mọi người.

Nhà Phật có câu: “ Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”. “Buông dao” và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống ô nhiễm, bước vào con đường thực hành các phương pháp để “thanh tịnh hóa tâm” như Mật Tông, Thiền Bắc Tông, Thiền Nam Tông, Tịnh Ðộ Tông, vân vân …

Trên đây chúng tôi đã trình bày vài khái niệm về địa ngục.

Nay xin nói về nỗi sợ hãi mênh mông của về cái gì đó mơ hồ gọi là Địa Ngục.

Tất cả loài người chúng ta, mà có lẽ luôn cả các loài sinh vật nữa, kể từ thời tiền sử, đều đã mang sẵn một nỗi sợ hãi mênh mông.

Ngay khi vừa mới lọt lòng mẹ, đứa bé đã khóc thét lên vì sợ, tay chân quờ quạng, chới với. Nó đang được nằm trong bào thai, được bảo bọc chặt chẽ, ấm áp trong lòng mẹ nó, nay bỗng nhiên rơi tõm vào một khoảng không gian trống rỗng, nên nó thất kinh hồn vía.

Rồi theo với thời gian, càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi sợ hãi, từ những nỗi sợ nhỏ nhít linh tinh như sợ bị đòn, cho tới nỗi sợ mất mát người thân yêu, mất nước, vân vân. Vì nỗi sợ hãi triền miên này mà tinh thần con người bị giam hãm, không khai phóng nổi.

Xin trích dịch một đoạn bình luận về sự sợ hãi do tư tưởng gia J. Krishnamurti trình bày trong cuốn On Fear, ông viết:

“Ðầu tiên chúng ta hãy tự hỏi “sợ là gì” và “nỗi sợ hãi nổi lên như thế nào”?

Ðối với chúng ta, bản thân từ ngữ “sợ” nghĩa là gì? Tôi đang tự hỏi “sợ là cái gì”, chứ không phải là “tôi sợ cái gì”.

Hiện tại, ngay lúc tôi đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi không sợ, chẳng có chuyện gì xẩy ra cho tôi, chẳng ai đe dọa hoặc lấy cái gì của tôi.

Nhưng ngoài cái thời gian đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi còn có một lớp sâu hơn, đó là vùng ý thức hoặc vô thức, đâu đó, manh nha tới điều gì đó có thể xảy ra cho tôi trong tương lai, hoặc e ngại về một cái gì đó từ thời quá khứ đột nhiên ụp xuống đầu tôi. Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn tương lai. Thế là tôi đã chia thời gian ra thành quá khứ và tương lai.

Ðến đây thì sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng: “Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa đâu”, hoặc “Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ tuy là anh đã có chút đỉnh, nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu chừng ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ mất công ăn việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành người có danh vọng. Có thể anh sẽ cô đơn… ”

Bây giờ chúng ta hãy thử xét tới cái dạng sợ hãi của chính bạn. Nhìn coi. Quan sát kỹ phản ứng của bạn đi. Bạn có thể nhìn nỗi sợ hãi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ chạy, không nẩy ra chút ý muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm chế chăng? Bạn có thể trực diện nỗi sợ đó mà không có trong tâm cái từ ngữ đã làm thức dậy nỗi sợ chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà không có từ ngữ đã đánh thức nỗi sợ chết chăng? Bản thân từ ngữ đã đem tới sự chấn động, cũng như từ ngữ “yêu” có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của chính nó, phải vậy không?

Bây giờ hãy coi có phải là những hình ảnh trong tâm trí bạn về sự chết, ký ức về biết bao nhiêu cái chết mà bạn đã nhìn thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản thân với những chuyện đã xẩy ra còn giữ trong tiềm thức đó, — phải chăng đó chính là hình ảnh đã tạo ra sự sợ hãi trong lòng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ đến chứ không phải là bạn sợ những hình tượng trong tâm đã tạo ra sự chết. Có phải là từ ngữ “chết” làm cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ ngữ hoặc ký ức là lý do để bạn sợ thì chẳng có gì đáng sợ hết ráo.

Giả dụ như hai năm trước bạn bị bệnh, ký ức về sự đau đớn, về cơn bệnh vẫn còn tồn tại trong trí nhớ, nay nó trỗi dậy nhắc nhở “Coi chừng, đừng để bị bệnh lại như lần trước nữa đấy nhé”. Thế rồi ký ức cùng với bè đảng của nó là guồng máy suy tư bèn tạo nên sự sợ hãi, mà thật ra thì chẳng có cái gì đáng để mà sợ hết ráo, vì lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.

Tư tưởng, vốn là cái luôn luôn cũ mèm, bởi vì tư tưởng thoát thai từ ký ức, mà ký ức thì dĩ nhiên là luôn luôn cũ mèm — tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn đang sợ hãi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế.

Thực tế là bạn đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về sự đau ốm, vốn đã khắc ghi trong tâm trí, trỗi lên nỗi sợ “Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!”

Như thế chúng ta thấy rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hãi.”

Như Krishnamurti nói “… chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hãi”, đạo Phật từ hai ngàn năm trăm năm trước cũng đã khuyên mọi người nên “thanh tịnh hoá tâm”, nghĩa là đừng để cho tâm chạy nhẩy như con vượn, con ngựa (tâm viên ý mã), thì sẽ được hưởng một đời sống giải thoát từng bước, rồi sẽ tới giải thoát triệt để.

Không cần phải đi tới đích mới được hưởng hoa trái, mà ngay khi quyết định bước lên con đường thanh tịnh hóa tâm là đã bắt đầu được hưởng kết quả, tâm hồn đã thấy thơ thới hân hoan rồi.

Có bài kệ trong kinh Phật như sau:

Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thẩy đều không
Ấy mới thật là chân sám hối.

Sám hối ở đây là “thanh tịnh hoá tâm”, làm cho “tâm tịnh”, chứ không phải là đem nải chuối tới chùa cúng Phật, hứa hẹn và cầu xin lung tung.

Nhà Phật cho rằng con người ta vì vô minh mà tạo nghiệp, thọ báo, cũng ví như một người đang đi trong căn nhà tối. Khi tâm được tịnh rồi “Trí Tuệ Bình Ðẳng tự chiếu”, thì cũng ví như bật ngọn đèn bừng sáng lên, bóng tối biến mất, màn vô minh bỗng tan rã, là lúc con người giác ngộ giải thoát vậy.

Nguồn: Thư viện Hoa Sen

Có gì là nhiệm mầu trong giây phút hiện tại ? Cynthia Thatcher – Nguyễn Duy Nhiên phỏng dịch

“Giữ chánh niệm.” “Sống trong giây phút hiện tại.” “Chú ý đơn thuần.” Trên con đường tu học, chắc chúng ta đều có nghe về những lời khuyên này. Và nếu bạn có kinh nghiệm về thực tập thiền quán, những câu ấy là một tiếng chuông nhắc nhở chúng ta từ sáng đến khuya, rằng ta có thể tìm thấy tất cả những gì là chân thật ngay trong giờ phút hiện tại này.

Nhưng rồi có một ngày, bạn ngồi thiền, cố gắng theo dõi hơi thở lên xuống nơi bụng, hay một tư tưởng, hoặc một cơn đau, và thấy tất cả sao dường như rất buồn thảm. Đột nhiên có một câu hỏi khởi lên trong tâm, “Cái giây phút hiện tại này có gì là nhiệm mầu đâu?”

Loanh quanh tự tìm cho mình một câu trả lời, bạn nghĩ có lẽ là vì giây phút hiện tại này giúp ta thấy được những cái đẹp mà mình có thể vô tình bỏ qua (mặc dù trong giây phút này thì tôi chẳng thấy có gì là đẹp hết), hoặc là ta có thể được giác ngộ (mà tôi cũng chẳng hiểu đó là gì), hay chỉ đơn giản là ta được an lạc và hạnh phúc hơn. Bạn cũng không biết rõ là nếu ta biết sống trong giây phút hiện tại thì những việc ấy sẽ xảy ra bằng cách nào! Nhưng bạn vẫn nghĩ rằng, nếu ta có thể giữ cho tâm mình được có mặt trong giờ phút hiện tại thì mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng tốt đẹp hơn bằng cách nào? Thì sẽ là… tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.

Tội nghiệp! Mặc dù chúng ta rất thành thạo về sự thực tập chánh niệm, nhưng đôi khi ta cũng không rõ ràng lắm khi tìm lý do tại sao giây phút hiện tại này lại là nhiệm mầu. Nhưng chúng ta cũng không nên làm lơ hoặc bằng lòng với một câu trả lời mơ hồ.

Tôi nghĩ, chúng ta cần nên nhìn cho sâu vào câu hỏi ấy, vì nếu như ta không hiểu rõ về giây phút hiện tại này, thì ta cũng sẽ dễ bỏ dở sự thực tập của mình, khi kinh nghiệm xảy ra khác với những gì mình mơ tưởng.

Mười bốn năm trước đây, trong khóa tu đầu tiên với sư Achan Sobin Namto, chính câu hỏi ấy đã khởi lên rất mạnh trong tôi. Lúc ấy tôi là một thiền sinh mới, trong tuần lễ đầu tiên của một khóa tu kéo dài ba tháng rưỡi. Sư Achan Sobin là một thiền sư người Thái, có hơn ba mươi năm kinh nghiệm hướng dẫn thiền tập.

“Cô thấy thế nào?” ông hỏi tôi. 

Ông vừa mới chấm dứt xong thời tụng kinh của mình. Trên bàn thờ ba ngọn nhang toả sáng trong một căn phòng lu tối. Mặc dù ông có nhiều tâm từ, nhưng những phiền não vẫn phủ trùm xuống tôi như một tấm áo choàng.

“Con đang có nhiều nghi ngờ” tôi đáp. 

Nhưng không phải tôi ngờ vực về khả năng của mình, hay là giáo pháp, hoặc là phương pháp thực tập. Nhưng chính là cái kinh nghiệm về một sự trống trải và lạnh lẽo khi tôi có mặt trong giây phút hiện tại. Cái giây phút hiện tại này có thực sự đáng để cho ta có mặt không?

Dường như Achan hiểu ý tôi, “Trong giây phút hiện tại này chẳng có gì hay ho phải không?” ông hỏi rồi phá lên cười to cho đến khi chảy cả nước mắt. Rõ ràng đây là một trò đùa mà ông cảm thấy rất là vui nhộn, nhưng đối với tôi thì chẳng thấy có gì là tức cười hết. Ông vui vì thấy tôi đang đi theo đúng đường. Tôi bắt đầu thấy điều mà tất cả mọi thiền sinh đều phải thấy:

“Sự Thật Nhiệm Mầu Thứ Nhất, là mỗi giây phút, mỗi sát-na của danh (mind) và sắc (matter), đều là bất toại nguyện (dukkha).”

Dầu vậy câu trả lời của Sư cũng khiến cho tôi giật mình. Vì tôi đã từng được đọc rằng, khi ta đặt hết tâm ý của mình vào giây phút hiện tại này, có phải là ta sẽ nhìn thấy được những vẽ đẹp mà mình có thể vì vô ý bỏ qua chăng? Có phải mùi vị trái mận sẽ ngon ngọt hơn chăng? Có phải ta sẽ thấy được những cành khô đong đưa toả sáng in hình trên một khung trời mùa đông không còn mờ xám như trước?

Nhưng bây giờ thì ông đã xác nhận rằng, giây phút hiện tại này không phải thật như tôi vẫn hằng tưởng. Tôi thở dài. Thế thì trái mận sẽ không trở nên ngọt ngào hơn. Giây phút hiện tại, thật ra, lại không nhiệm mầu chút nào hết!

Một Huyền Thoại Về Giây Phút Hiện Tại

Tôi thấy trong vòng thiền chúng ta có truyền cho nhau một huyền thoại này, là khi chánh niệm của ta càng sâu sắc bao nhiêu, ta sẽ lại càng có khả năng nhìn thấy được những cái đẹp trong những vật bình thường nhất bấy nhiêu. Với một tâm “chú ý đơn thuần”, thì ngay cả bọt xà phòng trong nước rửa bát – khi những bọt bong bóng lấp lánh trong nắng – cũng là một thực tại toả sáng nhiệm mầu. Đó chỉ là một huyền thoại. Mà sự thật là ngược lại như thế: thật ra, khi ta càng có chánh niệm bao nhiêu, thì những đối tượng cảm giác của ta lại càng ít hấp dẫn đi bấy nhiêu. Cho đến một lúc ta sẽ không còn ham muốn chúng nữa.

Sự thật thì khi ta có một định lực mạnh, nó sẽ làm tăng lên những cảm nhận của ta về màu sắc, âm thanh, mùi vị… Nhưng nếu chỉ có định lực thôi thì ta cũng sẽ không thể nào đi đến tuệ giác hay giác ngộ. Nếu như ta bảo rằng chánh niệm làm cho khung trời mùa đông trở nên đẹp tuyệt vời, hoặc công việc rửa chén trở thành một bài tập mầu nhiệm, theo tôi nghĩ thì đó lại là một sự thách thức đối với Sự Thật Nhiệm Mầu Thứ Nhất.

Huyền thoại này có mặt là do một sự hiểu lầm về vai trò của chánh niệm. Chánh niệm, được kèm theo bằng một nhận thức sáng tỏ, nó khác với một cái thấy biết bình thường. Thay vì chỉ nhìn thấy rõ rệt hơn những đặc điểm thông thường của một đối tượng, chánh niệm còn vượt xa hơn, và thấy được những điểm rất cá biệt – những đặc tính chung của mọi vật, dù tốt hay xấu. Đó là ba đặc tính về vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Với chánh niệm, ta thấy được tất cả mọi hiện tượng tâm lý và vật lý khởi lên đều rồi sẽ qua đi. Có nghĩa là ta không thể sửa đổi cũng không thể nào nắm giữ chúng được.

Những đặc tính ấy mang lại cho ta một sự bất toại nguyện. Vậy thì, khi ta càng có chánh niệm bao nhiêu, thì yếu tố bất toại nguyện, dukkha, lại càng trở nên rõ rệt bấy nhiêu.

Nhưng khi tôi ngồi đó với Achan Sobin, nhìn những điểm sáng của ba nén nhang, tôi cảm thấy một cảm giác mơ hồ về một điều gì đó mà tôi vẫn chưa xác định được. Có ai đó đang đùa giỡn với cuộc đời này chăng? Điều trớ trêu là tôi tập thiền vì muốn giải thoát khỏi những khổ đau của mình, và bây giờ tôi lại nhận thấy nhiều khổ đau hơn. Mà vị thầy của tôi lại công nhận điều ấy là đúng. Như vậy thì ta đi thực tập chánh niệm để làm gì? Tại sao ta lại phải có mặt trong giây phút hiện tại này? Nhưng câu trả lời chắc chắn không phải là ta bỏ đi sự thực tập chánh niệm. Đối với tôi, Achan là một người thong dong nhất, tự tại nhất mà tôi biết. Và tôi muốn mình cũng được như ông. Tôi theo học và thực tập những phương cách nào đã mang lại cho ông được sự an lạc đó.

Giây Phút Hiện Tại Làm Bằng Những Gì?

Ta cần tháo mở ra cái nút thắc Gordian Knot. Và tại sao chúng ta lại không chịu khó kiên nhẫn tháo mở nó bằng cách gỡ ra từng sợi một? Một nhà khoa học trước nhất có thể sẽ phân tách chất liệu của nó, và trong trường hợp của chúng ta đó chính là giây phút hiện tại này.

Vì vậy, chúng ta có thể bắt đầu bằng cách đặt câu hỏi: giây phút hiện tại này được làm thành bởi những yếu tố gì? Trong phật giáo có một hệ thống tâm lý học gọi là Vi Diệu Pháp, Abhidhamma. Theo Vi Diệu Pháp thì những kinh nghiệm hằng ngày của ta có thể được chia cắt ra thành những đơn vị rất nhỏ gọi là sát-na tâm (mind-moments.) Chúng là những đơn vị nhỏ nhất của tâm thức, là những vi lượng (quarks) của thế giới tâm thức.

Mỗi sát-na tâm gồm có hai phần: tâm thức và một đối tượng. Có nghĩa nó không phải là một cái bàn, một đóa hoa, mà chỉ là một đối tượng của tâm thức.

Tâm thức lúc nào cũng luôn có ý thức về một cái gì. Khi có một mảng trời xanh hiện vào vùng tâm thức của mình, một tia chớp của nhản-thức nhận thấy được màu sắc ấy. Khi có một mùi hương nào thoáng qua theo làn gió, một chớp của tỷ-thức nhận được mùi thơm ấy. Chỉ có tâm thức và đối tượng, và chỉ là vậy thôi. Cuộc sống của ta chỉ là một chuỗi tâm thức, mà ta liên tục ý thức được sắc màu, mùi, vị, âm thanh và những cảm giác tiếp nối nhau không ngừng nghỉ. Ngoài tiến trình này ra, không còn gì khác nữa xảy ra.

Như vậy thì còn những đối tượng ấy, tự chúng là gì? Chúng có tất cả là sáu loại: âm thanh, màu sắc, mùi, vị, xúc chạm và đối tượng tâm thức. Tâm thức của ta tiếp xúc với những đối tượng này qua những “cánh cửa” giác quan khác nhau. Ví dụ, ta tiếp xúc với màu sắc qua cánh cửa của đôi mắt. Những đối tượng tâm thức thì được tiếp xúc trực tiếp qua cánh cửa của tâm thức. Chúng gồm có cả tư tưởng, ý niệm, cảm xúc và tình cảm.

Tất cả những gì chúng ta nhận biết chỉ có thể nằm trong sáu đối tượng này mà thôi. Cho dù cuộc sống của ta có phiêu lưu, mạo hiểm hoặc táo bạo đến đâu, ta vẫn không thể nào có một kinh nghiệm gì khác hơn ngoài sáu hình tướng ấy. Và vì tâm và đối tượng tâm thức là những đơn vị cơ bản nhất của sự sống, cho nên không còn gì khác hơn có thể có mặt trong giây phút hiện tại này.

Hiểu được điều ấy rồi, ta có thể đặt câu hỏi kế tiếp là: những thành phần ấy tự chúng có là thú vị và đáng thích không? Chúng ta thường nghĩ rằng hình ảnh, mùi vị và âm thanh… có thể rất là kỳ diệu. Và theo cảm nhận thông thường thì chúng thật sự là vậy. Ta thích thưởng thức một mùi vị trà thơm hoặc một cảnh hoàng hôn đỏ buông xuống trên đồi núi. Nhưng niềm vui ấy có pha lẫn với một chút gì ảo tưởng. Sở dĩ chúng ta cho rằng những cảm xúc của giác quan vui sướng là vì ta chưa nhìn thấy được cái thực tánh của chúng.

Ta hãy lấy một ví dụ của mặt trời hoàng hôn: Việc gì xảy ra khi ta nhìn thấy nó? Thật ra thì ta không hề thấy nó! Khi mắt ta tiếp xúc với một sắc tướng, chúng ta chỉ thấy màu sắc, chứ không phải là một vật có không gian ba chiều. Thật ra, màu sắc ấy, cùng với tâm thức nhận biết nó, diệt mất đi ngay trong cùng một sát-na ấy, nhưng ta không hề ý thức được điều đó.

Tại sao thế?

Bởi vì cái ảo tưởng của ta làm mờ nhạt đi cái biên giới giữa hai sát-na ấy, và khiến chúng ta có cảm tưởng như đó là một kinh nghiệm nối liền. Sau khi màu sắc được tiếp nhận, sát-na tâm thức kế tiếp gợi lại hình ảnh ấy từ ký ức và đặt tên cho đó là “hoàng hôn.” Cả tiến trình ấy chỉ xảy ra trong một giây chớp nhoáng. Tuy vậy, khi ta vừa đặt tên cho nó thì hình ảnh ban đầu cũng đã qua mất rồi. “Hoàng hôn” là một ý niệm của tâm thức, chứ không phải do đôi mắt của mình. Và rồi chúng ta lại đi nhận sản phẩm được tạo dựng bởi tâm thức này như là một thực tại cố định. Nếu như không có chánh niệm, chúng ta sẽ không bao giờ có thể thấy được sự chuyển biến rất nhanh lẹ này, cũng giống như khi ta cố gắng tách biệt hai khung ảnh trong một cuốn phim đang chiếu trên màn ảnh vậy.

Khám phá này mang lại cho ta một sự thất vọng, cũng như khi ta biết ra rằng chuỗi ngọc quý giá mà mình đang mang là một loại đồ giả. Đức Phật dạy, chư hành vô thường (Sabbe sankhara anicca). Tất cả mọi hình tướng đều thay đổi, và vì vậy mà chúng sẽ mang đến cho ta sự thất vọng, ngay cả những gì mà ta thấy dường như rất là tuyệt vời. Mà đức Phật cũng không hề chú thích hoặc nói nhỏ thêm rằng, “Xuỵt! Nhưng cũng có một vài hình tướng rất là nhiệm mầu.”

Giây Phút Hiện Tại Nhiệm Mầu

Và bây giờ, nếu như tất cả những hình tướng đều rồi sẽ mang lại sự bất toại nguyện, thì những gì làm nên giây phút hiện tại này cũng sẽ như vậy. Nhưng rồi ta cũng có thể đặt thêm một câu hỏi tiếp, là nếu như giây phút hiện tại này không nhiệm mầu, thì ta có mặt với nó để làm gì?

Ta cũng nên nhớ rằng có sự khác biệt giữa “Giây phút hiện tại này thật nhiệm mầu” và “Thật nhiệm mầu khi ta có mặt trong giây phút hiện tại này.”

Đây không phải là một lối chơi chữ. Câu thứ nhất, “Giây phút hiện tại này thật nhiệm mầu”, có ý nói rằng, những cảm giác thuần tuý xảy ra trong giây phút hiện tại tự chúng có chút tính chất kỳ diệu.

Và, câu thứ nhì, “Thật nhiệm mầu khi ta có mặt trong giây phút hiện tại,” nói rằng, khi ta có mặt trong giây phút hiện tại, là ta có khả năng thoát ra khỏi những phiền não do sự nắm bắt vào những cảm giác ấy.

Thật ra, đức Phật có trình bày rất rõ về lý do chúng ta cần thực tập chánh niệm: để nhận diện và loại trừ đi cái nguyên nhân của khổ đau. Nguyên nhân ấy chính là sự tham ái. Khi nguyên nhân ấy vắng mặt thì khổ đau sẽ không thể sinh lên. Và chừng ấy, trong kinh viết, ta sẽ kinh nghiệm được một loại hạnh phúc mà không có chút tì vết gì của sự lo âu.

Nhưng không phải bởi vì hình sắc và âm thanh chung quanh ta chúng đột nhiên trở nên trường cửu, kỳ diệu, và là của ta. Mà thật ra, những cảm nhận ấy tạm thời chấm dứt, và tâm thức ta tiếp xúc được với một đối tượng rất siêu phàm gọi là “niết bàn,” một yếu tố không còn bị điều kiện chi phối. Và mặc dù đó là một đối tượng của tâm thức, nhưng niết bàn, trạng thái an lạc cao tột nhất, không hề là một hành (formation). Nó là vô hành và bất biến. Vì vậy giây phút hiện tại nhiệm mầu là vì chỉ có trong chính giây phút này, ta mới có thể chứng nghiệm được niết bàn – hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi khổ đau.

Không có một nơi nào đức Phật lại chủ trương thực tập chánh niệm với mục đích để ta có thể vui hưởng làn nước xà phòng ấm, hoặc thấy được một bình trà bằng đồng sáng chói… Mà ngược lại, Ngài còn gọi đó là mê vọng (vipallasa) khi ta chấp những gì là không thường và cho đó là có giá trị và tốt đẹp.

Nhưng những cảm nhận ở cảm giác có thể là vui thích được không? Có chứ, nhưng sự vui thích ấy không phải là một nguồn hạnh phúc bất tận nhưng chúng ta vẫn hằng tưởng. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường chấp vào những cảm giác tốt đẹp, cho rằng chúng vững chắc và tương đối lâu dài. Trong khi thật ra chúng chỉ là những rung động không bền và tan rã vừa khi mới vừa hình thành. Cũng giống như loại kẹo bông gòn nó tan ra ngay trước khi ta kịp cắn răng vào, những thú vui ấy không bền vững đủ để duy trì cho ta một niềm hạnh phúc.

Nhưng vì sự mê hoặc che đậy lý vô thường, nên chúng ta phản ứng lại bằng những sự nắm bắt và xua đuổi. Và chính hành động níu kéo đó làm tâm ta bất an. Bạn có để ý thấy rằng sự ước ao, mong đợi bao giờ cũng tạo nên trong ta một nỗi đau không? Và hơn nữa, sự khát khao ấy là hoàn toàn vô ích. Vì dù có cố nắm bắt bao nhiêu đi chăng nữa, ta cũng không thể kéo dài thêm niềm vui ấy, cho dù chỉ trong một sát-na. Và những cảm giác khó chịu cũng giống y như vậy, chúng cũng sẽ qua đi trong giây phút. Nhưng khi ta chống cự lại, nỗi đau sẽ tăng lên gấp đôi. Nó cũng giống như khi ta cố gắng lấy một cây gai trong chân ra bằng cách dùng một cây gai thứ hai đâm vào da thịt mình. Nếu như ta có thể buông bỏ được, tâm ta sẽ không phải chịu khổ đau.

Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết. Khi có người hỏi, làm sao ta có thể tìm thấy niềm hỷ lạc ở nơi niết bàn, trong khi nơi ấy không còn có sắc tướng hay âm thanh đẹp đẽ gì nữa, ngài Xá Lợi Phất đáp: “Không có cảm xúc tự chính nó là hạnh phúc.” Ý ngài nói rằng, không có một thú vui nào có thể so sánh được với niềm hỷ lạc này.

Trong kinh ghi, “Những gì người đời cho là hạnh phúc, bậc giác ngộ cho là khổ đau…” (Dvayatanupassana Sutta.) Và đây không phải là một quan điểm mới, mà nó chính là một thực tại tuyệt đối.

Mặc dù mới nghe thì có vẽ như rất mâu thuẫn, nhưng ta chỉ có thể tìm thấy một hạnh phúc chân thật, khi trước hết ta hiểu được rằng, giây phút hiện tại của thân và tâm là bất toại nguyện. Bằng một tiến trình qua những tầng lớp của tuệ giác, mà ta có thể dần dà buông bỏ được hết mọi dính mắc, nguyên nhân của những phiền não. Khi ta thấy rõ được sự vô thường của những cảm giác ở thân và tâm, nó sẽ phá tan hết những ảo mộng, và từ đó những dính mắc của ta sẽ hoàn toàn tắt ngấm. Và ngay lúc đó, một chân hạnh phúc sẽ tự nhiên hiển lộ. Nhưng nếu ta cứ bận rộn đi tìm kiếm thêm những cái đẹp trong ngay chính thanh và sắc thì làm sao ta có thể nhìn thấy rõ chân tướng của chúng được?

Hạnh Phúc của Niết Bàn

Hãy tưởng tượng rằng ta và một số người bạn đang mắc kẹt trong một căn nhà bị bốc cháy. Những thanh lửa thay phiên rơi xuống từ trần nhà. Có phải tốt nhất là chúng ta cần ý thức được tình trạng hiểm nguy và cùng giúp nhau thoát ra, hay ta cứ đứng đấy mà tìm những cái hay đẹp của nó, “Xem kìa, cũng đâu đến nỗi nào đâu. Ngọn lửa hồng có màu tím hoa cà trông đẹp làm sao…”?

Cũng vậy, tôi nghĩ chúng ta cần có chánh niệm để nhìn rõ được dukkha trong giây phút hiện tại, bởi vì nó là chiếc cầu thang duy nhất dẫn ta thoát ra khỏi căn nhà lửa ấy. Căn nhà ấy chính là khandhas, tức năm uẩn của ta là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Tôi biết có nhiều người không thích chấp nhận quan điểm này. Nhưng không lẽ tốt hơn hết là ta nhún vai làm lơ việc ấy, và cứ để mặc mình rơi trở lại xuống cầu thang hay sao? Không công nhận sự nguy hiểm là một điều rất nguy hại. Thấy được nó, ta sẽ tìm được một lối thoát.

Nhưng không phải chúng ta đối diện với khổ đau bằng một thái độ bi quan. Người Phật tử nhận diện khổ đau để chuyển hóa nó, chứ không phải để bị chìm đắm trong đó.

May mắn thay, đức Phật có chỉ cho ta một con đường giải thoát, bát chánh đạo, và cuối con đường ấy chắc chắn sẽ là niết bàn. Ai mà chẳng mừng vui khi biết rằng ta có thể có được một hạnh phúc hoàn toàn thuần tuý không tì vết. Nhưng chỉ vì tầm nhắm của chúng ta còn quá thấp đi mà thôi. Thực tập chánh niệm sẽ dẫn ta đến hạnh phúc. Nhưng không phải vì nhờ ta nhìn thấy rõ được cái hay đẹp của những cảnh vật trong giây phút hiện tại này – như là hình sắc, âm thanh, mùi vị…

Mặc dù huyền thoại thì vậy, nhưng sự chú ý đơn thuần không hề phơi bày cho ta thấy một thực chất sáng chói nào hết, vì thật ra không có một hiện tượng nào là có thực chất.

Khi bản chất của các hiện tượng tự chúng là bất toại nguyện, thì ta có thể nào hy vọng chế biến chúng thành hạnh phúc được chăng? Việc ấy cũng giống như là ta đi dệt một tấm thảm trắng từ những sợi len màu đen vậy. Vì vậy, tôi nghĩ cách hay nhất là ta nên chấp nhận rằng thực tập chánh niệm sẽ không làm trái mận ngọt ngào hơn, hay là bình trà màu đồng sáng tươi hơn. Nhưng khi ta có chánh niệm, ta sẽ bớt quan tâm về vấn đề ngọt ngào hay sự sáng chói. Khi chúng ta có một hạnh phúc lớn lao hơn, những thú vui nho nhỏ sẽ không còn là chuyện quan trọng. Và đây không phải là một thái độ lạnh lùng và dửng dưng, mà nó là một sự giải thoát thật sự.

Khi chúng ta không còn sự dính mắc nữa, ta sẽ không cần một âm thanh, hình sắc hoặc sự xúc chạm nào để mang lại cho mình hạnh phúc.

Ta có thể chưa hiểu được, nhưng khi ta nếm được mùi vị của sự tự tại này rồi, ta sẽ trân quý nó hơn bất cứ một niềm vui nào khác mình có thể nghỉ tưởng đến – cho dù đó là mùi hương của một loài hoa quý, những nốt nhạc trầm bổng của chopin, hay ánh trăng huyền diệu. Chúng ta vẫn có thể kinh nghiệm được những hạnh phúc này, và những thú vui khác. Nhưng ta sẽ không cố nắm giữ lại khi chúng ra đi, ta không có sự khổ đau của mất mát.

Và bây giờ là câu hỏi khó nhất: chúng ta có thật sự muốn giải thoát ra khỏi vòng khổ đau này hay không?

Nếu vậy thì ta hãy thực tập chánh niệm. Nhưng không phải là để nhìn thấy vẻ đẹp không thật của những bọt xà phòng, mà là đúng theo ý của đức Phật, là thấy được sự dính mắc của mình, cho đến khi nào ta nếm được quả trái chân thật là niết bàn.

Và như các bậc đi trước đã nhiều lần nói với ta: khi đối tượng tâm thức của ta là niết bàn, giây phút hiện tại này sẽ đẹp tuyệt vời.

Cynthia Thatcher – Nguyễn Duy Nhiên phỏng dịch

Ăn chay và tình cảm trong gia đình

Hỏi:

Chúng tôi là một đại gia đình gồm cha mẹ và năm anh chị em, hai trai, ba gái. Trong suốt cuộc đời tôi, hình ảnh mẹ tôi là trung tâm của gia đình. Từ khi còn ở Việt Nam, mẹ tôi là một bà nội trợ giỏi, với đồng lương công chức eo hẹp của ba tôi, mẹ tôi chi tiêu tằn tiện, may lấy quần áo cho chúng tôi, nấu những món ăn cho gia đình, dù không phải sơn hào hải vị, nhưng rất ngon. Tôi vẫn còn nhớ món cá nục trong những cái rổ nan, mẹ tôi chiên lên, rưới nước mắm, rắc hạt tiêu rồi hạ lửa xuống chỉ còn riu riu, mùi cá xém vàng nâu quyện với nước mắm cô đặc lại, bốc lên thơm ngào ngạt.

Khi ba tôi được đi theo diện HO, chúng tôi qua đến đây cũng còn nghèo lắm, mẹ tôi vẫn làm những món ăn rẻ tiền như khi còn ở quê nhà, đôi khi sang hơn một chút như có thêm thịt gà, thịt heo, vân vân… Còn nhớ những chiều đi học về, bóng dáng mẹ lui cui trong bếp, tay đũa tay thìa, mẹ nêm nếm những món gà kho gừng, cánh gà xào chua ngọt, mùi thơm hấp dẫn, tôi thường lấy cơm nóng bỏ vào chảo để vét lại cái chất nước sốt dẻo quánh, thơm và ngọt lựng trong cổ. Ðôi khi, mẹ tôi cũng chiên cá nục với nước mắm và hạt tiêu như khi xưa, mẹ bảo :” Món này rẻ lắm”, chúng tôi lại thấy ngon quá, chẳng đòi mẹ món ăn đắt tiền. Còn nhớ hôm anh tôi ra trường, mẹ tính cho cả nhà ăn món gà El Pollo Loco, nhưng rồi mẹ lại mua thịt gà về quay với bơ, mẹ bảo nhà làm thế này rẻ hơn nhiều, chúng tôi thì thấy ngon quá rồi, chẳng cần đòi hỏi gì thêm.

Ngày tháng êm ả trôi mau trong cuộc sống thanh bạch mà vui. Rồi chúng tôi ra trường, có gia đình, con cái. Mỗi cuối tuần, chúng tôi vẫn về ăn cơm với ba mẹ, rồi gửi con cho mẹ tôi trông giùm để đi coi chiếu bóng hay thăm bạn hữu. Mỗi tuần mẹ tôi lại nấu một món đặc biệt, như phở Bắc, hủ tiếu Nam Vang, bún bò Huế, mì Quảng, bánh xèo, bánh tôm, chả giò, vân vân, món nào của mẹ nấu cũng đều rất ngon. Dù nay thì chúng tôi dư tiền để ra tiệm ăn những món mà ngày trước coi là món ăn sang, nhưng chúng tôi thấy món mẹ nấu ngon hơn, thích ăn ở nhà ba mẹ hơn.

Từ khi chúng tôi đi làm, có gia đình, thì đời sống của ba mẹ tôi cũng khá hơn. Ngoài tiền trợ cấp của chính phủ, chúng tôi cũng biếu thêm chút đỉnh để ba mẹ đi chơi, hoặc có tiền chiêu đãi bạn bè, linh tinh. Mẹ tôi thì đi chùa, đi thăm bè bạn. Và rồi vấn đề bắt đầu nẩy sinh từ lúc này.

Sau một thời gian đi chùa, mẹ tôi bắt chước các bà bạn, học làm đồ chay, rồi đổi qua ăn chay. Lúc đầu thì còn ăn một tháng có mấy ngày, sau ăn chay trường luôn, chấm dứt ăn thịt.

Hồi mới ăn chay, mẹ tôi vẫn còn nấu các món ăn mặn như thường lệ. Sau một thời gian thì bà chỉ nấu món chay và mua những món mặn nấu sẵn ở ngoài tiệm đem về để mọi người ăn dặm chung trong mâm. Dần dần, những bữa ăn món đặc biệt cuối tuần như phở, bún, vân vân, cũng biến mất. Mẹ ít vào bếp, thường yêu cầu chúng tôi mua đồ ăn nấu sẵn, hoặc cùng nhau ra tiệm ăn. Thành ra sự đi chùa, tu hành theo đạo Phật thì từ bi đâu không thấy, chỉ thấy gia đình tôi mất những bữa ăn ngon lành đầm ấm khi xưa.

Ba tôi rất bực mình vì khẩu vị của ba đã quen với cách nấu ăn, nêm nếm của mẹ. Cơm ngoài tiệm ba thường chê mặn, chê bột ngọt, chê dầu mỡ, có khi chỉ nếm qua rồi bỏ ăn, đứng lên.

Cả ba tôi và chúng tôi đều oán đạo Phật và sự ăn chay, đã làm mất những bữa cơm gia đình ấm cúng của chúng tôi, đã làm mất niềm vui mà đã bao lâu nay mẹ chúng tôi đã đem lại cho chúng tôi.

Xin quý vị giúp ý kiến cho tôi, nên khuyên mẹ tôi ăn thịt trở lại, hay là nên khuyên ba tôi chấp nhận sự ăn trường trai và không nấu thịt cá của mẹ.

Trân trọng cảm ơn quý vị,
Ngọc Hạnh

Đáp:

Ðọc thư của bạn Ngọc Hạnh với những chi tiết nồng đượm tình gia đình, chúng tôi rất ngậm ngùi. Cũng như bạn Ngọc Hạnh, chúng tôi cũng cảm nhận được sự mất mát của gia đình bạn. Cảm nhận sự mất mát thì giống nhau, nhưng là những người đứng ngoài, nên chúng tôi có thể thấy thêm vài khía cạnh khác của vấn đề, xin trình bày ra cùng quý thính giả và bạn Ngọc Hạnh, như sau:

Trước nhất, một điều rất rõ là gia đình bạn Ngọc Hạnh đã đặt tất cả niềm vui vào một trung tâm điểm, trung tâm điểm này không phải là “bà mẹ” nhưng là “khả năng nấu ăn ngon của bà mẹ”. Bởi vì bà mẹ vẫn còn sống đó, chỉ ngừng nấu các món mà gia đình thích  thôi, là tất cả tình cảm mà trước kia biểu hiện ra trong việc nấu ăn, nay dĩ nhiên là vẫn còn đó, đã bị chồng con xóa hết rồi. Bản thân bà cũng vẫn còn đó, nhưng tình yêu của gia đình đối với bà thì dường như đã bị sứt mẻ. Tâm lý đó của mọi người trong gia đình có thể đã đôi khi biểu lộ ra, dù không quá lộ liễu, nhưng cũng đủ khiến cho bà mẹ suy nghĩ về “thân phận công cụ nấu bếp” của mình trong lòng chồng con chăng?

Trong cuộc sống vô thường, mọi sự đổi thay từng giây, từng phút, không ai biết lúc nào mình sẽ thở ra mà không còn hít vào này, sự đặt tất cả niềm hạnh phúc của gia đình vào tài nấu ăn của một người là sai lầm. Có thể bất thình lình bà mẹ bị tật bệnh gì đó, không còn nấu nướng được nữa, hoặc một ngày nào đó, tuổi già sức yếu, bà mẹ không thể gánh vác được những kỳ vọng mà chồng con đặt vào bàn tay làm bếp của mình, thì tất cả niềm vui của gia đình cũng sụp đổ hay sao? Còn phải nhớ đến rằng cái chết có thể tới với bất cứ ai vào bất cứ lúc nào, cho nên mỗi người phải tự mình tìm được sự an lạc từ nội tâm mình, không thể trông cậy vào ai khác, nhất là trông vào tài nấu bếp của một bà mẹ.

Nếu gia đình bạn Ngọc Hạnh để ý tới nội tâm của bà mẹ, sẽ có thể nhìn ra thêm khía cạnh khác, qua sự đổi thay của bà. Có thể là do đi chùa, tâm hồn bà phong phú ra, suy tư sâu sắc hơn, bà nghĩ tới được những vấn đề mà trước kia bà chưa từng nghĩ tới, cho nên hành xử khác trước.

Chúng tôi được biết có những gia đình đã tưởng tượng sai về sự đi lễ của bà mẹ, coi như là “ham vui”, hoặc là “già rồi trở thành mê tín”, hoặc “đến chùa gặp bè bạn để khoe của, khoe con”, mà thường là không tìm hiểu coi sinh hoạt ở chùa của mẹ như thế nào, không nhìn vào đời sống nội tâm của mẹ, đã biến chuyển ra sao.

Thực tế, do đi chùa, Phật tử được tiếp cận với giáo pháp nhà Phật, đôi khi do các vị sư giảng, nhưng phần lớn là do bạn đạo trao truyền cho nhau những câu chuyện, những băng giảng, những sách báo có những bài giáo lý. Từ những nguồn tài liệu này, một số vị đem về nhà, nhưng trước sự coi thường của chồng con đối với đạo, các vị ấy lặng lẽ đọc, lặng lẽ nghe băng, nhờ vậy, tâm hồn có sự chuyển hóa, hiểu được những phần cốt tủy của nhà Phật, về sự bớt làm điều xấu ác, tăng làm điều tốt lành và tụng kinh niệm Phật để thanh tịnh hóa tâm ý.

Trong những bài giảng, rất nhiều đề tài được đặt ra. Vì đạo Phật xây dựng trên hai cột trụ chính là Từ Bi và Trí Tuệ, cho nên đề tài Từ Bi thường được nói tới nhiều nhất. Cụ thể như trong một dịp gặp gỡ các tâm lý gia Hoa Kỳ, đức Ðạt Lai Lạt Ma cũng thảo luận với họ về đề tài Từ Bi, được trình bày trong cuốn “Worlds in Harmony, Dialogues on Compassionate Action”. Chúng tôi xin trích dịch mẩu đối thoại giữa Ngài và tiến sĩ Joanna Macy, một nhà bảo vệ môi sinh, sáng lập viên của Nuclear Guardianship Project, như sau:
…”…
Bà Joanna Macy hỏi:

 Thưa Ngài, tôi xin hỏi Ngài về trường hợp khác, trong đó những con vật rất đau đớn, đó là tại các trại chăn nuôi. Ðể có thể thay đổi lề lối làm việc ngõ hầu giảm thiểu sự đau đớn cho những sinh vật này, chúng ta cần phải nhìn tận mắt nỗi đau đớn của chúng. Nhưng đối với phần lớn chúng ta thì dường như sự nhìn vào nỗi đau đớn đó là điều quá sức chịu đựng nổi, cho nên chúng ta muốn nhìn đi phía khác để lảng tránh sự thực. Ngài mới giảng rằng phải thực tập hành động không lảng tránh mà nhìn sâu vào nỗi đau để không còn sợ nó nữa. Vậy nếu có thể, xin Ngài giảng rõ hơn, nhất là trong tinh thần liên đới cảm thông với các loài sinh vật đàn em đang bị hành hạ này chăng?

Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đáp:

– Hàng ngàn, hàng triệu, hàng tỷ con vật bị giết để làm đồ ăn cho loài người. Ðiều đó thật là đáng buồn! Loài người chúng ta có thể không cần phải ăn thịt mà vẫn sống, nhất là trong thế giới tân tiến ngày nay. Chúng ta có quá nhiều thực phẩm bằng rau đậu và nhiều loại đồ ăn khác, cho nên chúng ta có khả năng và bổn phận cứu sống hàng nhiều tỷ sinh mạng. Tôi đã thấy có nhiều cá nhân và nhiều nhóm người tích cực yểm trợ các hoạt động bảo vệ quyền sống của loài vật, những người này đều ăn chay trường. Thật là tuyệt !

Có những sự giết chóc thật là phí phạm. Thí dụ săn bắn và câu cá, coi như là trò thể thao, đúng là vô nghĩa lý. Nếu giết vì lý do khác, thí dụ đánh cá để làm thực phẩm, thì còn có thể hiểu được hơn. Nhưng có lẽ điều đáng buồn nhất là tại các trại chăn nuôi. Những con vật đáng thương sống ở đó thật là đau khổ. Bản thân tôi đã từng tới thăm một trại nuôi gà tại Nhật, nơi người ta nhốt hai trăm ngàn con gà mái suốt hai năm trường, chỉ cốt để cho chúng đẻ trứng. Chúng là những kẻ tù đầy trong hai năm ròng rã đó. Rồi sau hai năm, khi không còn khả năng sinh sản, thì chúng bị bán đi để giết lấy thịt. Thật là kinh hoàng, đáng buồn quá! Chúng ta phải hỗ trợ những người có lòng muốn giảm thiểu cung cách đối xử bất công này.
 
Thật là tai hại nếu chúng ta không quan tâm tới nỗi đau đớn của bất cứ chúng sinh nào. Ngay trong chiến tranh, chúng ta cần nhận thức được nỗi đau đớn của đối phương và sự áy náy trong lòng mình vì đã gây đau thương cho họ thì tốt hơn…”…

Ðó là những lời khuyên của một tu sĩ Phật giáo về sự phát triển lòng từ bi, mà do tiếp cận với đạo, người Phật tử đã nhận thức được.

Nhân đây, chúng tôi cũng xin minh xác rằng ăn chay trường không phải là điều bắt buộc của người Phật tử. Ngay trong thời đức Phật, Ngài và chư đệ tử cũng không ăn chay trường, mà dùng những thức ăn do thí chủ cúng dường, dù là có thịt. Miễn là người ăn không trông thấy con vật bị giết, không nghe thấy tiếng nó kêu khi bị giết, và không nghi rằng nó bị giết với mục tiêu cho mình ăn, như thế, những thịt này được gọi là tịnh nhục. Tục lệ đó còn được chư tăng hệ phái Nguyên Thủy duy trì cho tới ngày nay.

Ðối với hệ phái Bắc Tông thì chỉ các tu sĩ mới ăn chay trường, còn cư sĩ  tại gia thọ trì Ngũ Giới, thì Giới Sát chỉ cấm giết, chứ không cấm ăn thịt. Tuy nhiên, nhà Phật cũng khuyến khích Phật tử giảm bớt ăn thịt để cho súc vật đỡ bị giết. Vì thế mới có chế độ ăn chay kỳ, thí dụ mỗi tháng ăn chay bốn ngày, gọi là tứ trai, ăn chay sáu ngày, gọi là lục trai, ăn chay mười ngày, gọi là thập trai, ăn chay trọn một tháng gọi là nguyệt trai, vân vân. Tóm lại, đa số Phật tử không ăn chay trường.

Nhưng hiện nay riêng trong nước Mỹ, theo thống kê của hội bảo vệ súc vật, có mười hai triệu người ăn chay trường. Phần đông những người này không phải là Phật tử, họ ăn chay vì lý do sức khỏe, hoặc vì lòng trắc ẩn, thương xót loài vật, không muốn chúng bị  đau đớn suốt cuộc đời cho tới lúc chết, chỉ vì lý do mình muốn ăn thịt. Chúng tôi xin trích dịch ý kiến của tác giả David A. Gabbe, viết trong cuốn “Why Do Vegetarians Eat Like That?” như sau:

…”… Thông thường, khi những con bò, bê, heo được chở tới lò sát sinh thì chúng đã phải đứng liên tục, kề vai nhau trên suốt đoạn đường dài dằng dặc. Chuyến đi khiến cho chúng bối rối, kiệt sức, và trong nhiều trường hợp, quá ốm yếu. Ít nhất là suốt một ngày rồi, chúng không được ăn, vì về phương diện kinh tế thì chẳng còn có lợi lộc gì khi cho những con vật ăn bữa cuối cùng, cái bữa mà chúng chẳng còn kịp tiêu hóa khiến cho đồ ăn biến thành thịt trước khi bị giết!

Và trong khi những nhân viên lò sát sinh, có thể vốn không phải là những kẻ ác độc bệnh hoạn từ bản chất, nhưng áp lực của công việc ghê gớm đã khiến cho nhiều người trong số họ trở thành nhẫn tâm đối với những con vật sắp lên đoạn đầu đài. Kết quả là họ tuôn ra hàng tràng la hét giận dữ, và tống những cái đạp, những cái quất lên những con vật bối rối, kinh hoàng. Tụ tập hàng trăm hoặc hàng ngàn, những con vật khiếp đảm chen chúc nhau đứng phía ngoài lò sát sinh, chờ tới phiên mình bước vào cõi chết.

Vẳng nghe tiếng kêu hấp hối thống thiết từ những con vật đi trước vọng ra, bầy gia súc tê dại với hình ảnh của chết chóc. Bây giờ thì chỉ một nhát đập mạnh và một cú điện giật là đủ khiến cho con vật đành phải líu ríu bước vào phòng tàn sát.

Trái với điều có thể quý vị tưởng, không làm gì có cách giết nhân đạo theo chỉ thị! Nhân viên lò sát sinh có thể chọn bất cứ cách giết nào — thường là cách rẻ tiền nhất –, bất kể là man rợ hoặc tàn ác. Trong nhiều lò sát sinh, những con vật trong cơn kinh hoàng được giáng cho một đòn bất tỉnh bằng một nhát vào đầu — thường là một thanh sắt bổ xuống sọ –, hoặc bằng một luồng điện giật, hoặc bất cứ cách nào khác, trước khi chúng bị cùm chặt, rút lên cao và bị đâm liên tục vào ngực, cổ, để làm đứt những động mạch chính. Máu phun ra từ nhiều vết thương khiến cho con vật chết lẹ vì cạn kiệt….”…

Trên đây chỉ là trích đoạn ngắn ngủi của bản trường ca bi thảm mà những con vật tội nghiệp phải chịu đựng suốt một cuộc đời. Lão Tử đã nói “Ta khổ vì ta có cái thân”. Chỉ vì có cái thân làm loài vật, mà những con vật đáng thương phải chịu một cuộc đời đầy đọa, đau đớn từ lúc sinh ra cho tới lúc chết.

Nhưng còn những con vật không bị tù tội, được rong chơi bơi lội như loài cá thì sao? Ca sĩ Cao Thái có bài thơ  “Con Cá”, như sau:

Tôi là con cá dưới sông
Có cha, có mẹ, có chồng có con
Trông con trông mỏi trông mòn
Trông khi họp mặt coi còn đủ không
Ngày ngày dong ruổi chạy rong
Kiếm ăn đây đó đỡ lòng mới thôi
Bữa kia nghe tiếng con tôi
”Mẹ ơi, con đã mắc mồi rồi me”
Lạy Trời lạy Phật chở che
Cho cha cho mẹ cho bè con thơ
Thành người tôi sẽ ước mơ
Kiếp sau sẽ chẳng bao giờ đi câu.

Biết đâu lũ cá chẳng vừa bơi vừa nguyện ước:

“Xin cho chúng tôi đừng gặp loài người” ?

Trích Thư viện Hoa Sen

Bộ ba: Căn – Trần cảnh – Thức

Hỏi:

– Gia đình tôi theo đạo Phật từ xưa, trong nhà có bàn thờ Phật, mẹ tôi ăn chay mỗi tháng bốn ngày. Nhưng bản thân tôi và các anh chị em, kể luôn cả cha tôi nữa, đều không biết gì nhiều về đạo Phật, ngoại trừ bàn thờ Phật và chiếc áo tràng màu khói hương của mẹ tôi.

Hôm nay anh chị em chúng tôi có mấy thắc mắc muốn hỏi quý vị vì chúng tôi không thỏa mãn với câu trả lời của mẹ tôi, là người Phật tử hiểu đạo nhất trong nhà.

Thắc mắc thứ nhất:

Chúng tôi thường thấy những gia đình đạo Phật đến chùa làm lễ cầu siêu cúng cơm cho thân nhân đã chết hoặc những dịp đám giỗ, vân vân. Vậy xin hỏi rằng những vụ cầu siêu cúng cơm như thế, thân nhân đã chết có được hưởng gì không?

Thắc mắc thứ hai:

Nếu nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm các điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao có nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ, được không ạ.

Mẹ chúng tôi thì tin tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự độ chúng sinh” của các thầy, nên không niệm Phật tụng kinh, chỉ đến chùa làm công quả những ngày cuối tuần, cho là khi chết sẽ có các thầy lo.

Chúng tôi không nghĩ như mẹ, nhưng cũng không hiểu rõ, nên gửi thư này xin quý vị giải thích.

Đáp:

– Về thắc mắc thứ nhất, chúng tôi xin nhắc lại phần trình bày của chúng tôi trong một kỳ phát thanh trước đây, như sau:

“Theo Phật giáo, cái chết là sự chấm dứt của đời sống tâm-vật lý của cá nhân. Chết là sự diệt tắt của sinh lực, tức là đời sống tâm linh và vật lý, cùng với hơi nóng và thức.

Chết không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng sanh không bị tiêu diệt.

Cũng như ánh sáng đèn điện là biểu hiện bề ngoài mà ta có thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là biểu hiện bề ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn có thể vỡ và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn tồn tại, và ánh sáng có thể phát hiện trở lại nếu ta đặt vào đấy một bóng đèn khác. Cũng như thế, sự tan rã của thể xác không làm xáo trộn luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt của thức hiện tại dẫn đến sự phát sanh mới. Tuy nhiên, không có gì trường tồn bất biến, như một thực thể đơn thuần, “chuyển” từ hiện tại sang tương lai.

Trong trường hợp nêu trên, nếu người chết tái sanh trở lại vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên là một loại tâm thiện. Thức-tái-sanh là từ tâm thiện ấy phát sanh, tự nhiên chuyển đến cái trứng và tinh trùng tương xứng trong cảnh người.

Như thế có nghĩa là cho đến lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn luôn luôn trôi chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn. Ngay lúc chết những chập tư tưởng vẫn liên tục kế tiếp như trong đời sống.

Hiện tượng chết và tái sanh diễn ra tức khắc, dầu ở bất cứ nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra trong không gian được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết ngay đến tái sanh, không trải qua một trạng thái chuyển tiếp nào. Phật giáo thuần túy không chủ trương có linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào, chờ đến khi tìm được một nơi thích hợp để đầu thai.”

Trên đây là quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy, hay còn gọi là Nam Tông, trích trong cuốn Ðức Phật và Phật Pháp do Hòa Thượng Narada biên soạn.

Về phía Phật giáo Bắc Tông, hay còn gọi là Ðại Thừa, thì quan niệm rằng không hẳn là tất cả mọi người sau khi chết đều tái sinh ngay lập tức. Trường phái này cho là những người có nghiệp rất thiện thì ngay sau khi chết sẽ sanh vào các cõi Tịnh, thí dụ cõi Tây Phương Tịnh Ðộ, Ðông Phương Tịnh Ðộ, vân vân, và những người có nghiệp rất ác thì sau khi chết sẽ sanh ngay vào các cảnh giới ác, như Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ hoặc tái sinh thành các loài súc sinh. Trường hợp đó gọi là “chết đây sinh kia”. Ngoài các trường hợp đó, sau khi chết, người ta có thể còn lưu tâm thức lại một thời gian trong trạng thái gọi là Thân Trung Ấm, và mơ màng trong cảnh giới này từ  1 lần 7 ngày,  cho tới 7 lần 7 ngày,  là 49 ngày. Trong thời gian đó, nhất là 21 ngày đầu, người đã qua đời vẫn còn có ấn tượng mạnh mẽ về kiếp sống vừa qua. Và chính từ niềm tin này, người ta coi trọng sự cầu nguyện để giúp chuyển hóa tâm trạng người chết khiến cho thần thức của họ hòa nhập được vào các cõi an lành.

Như vậy thì cả hai truyền thống Phật giáo, Bắc Tông và Nam Tông đều không nói đến những hình thức cúng kiếng cho người đã chết từ lâu, hàng năm trời, mà chỉ có thể giúp cho người mới chết, qua những lời khai thị, những bài kinh, thốt lên từ tấm lòng chí thành thanh tịnh của chư vị chân tu và thân nhân, hy vọng thần thức của Thân Trung Ấm cảm được, mà tiêu dung được các tâm niệm xấu, cởi mở được các nỗi oán hờn.

Nhà Phật quan niệm rằng các loài hữu tình chúng sinh tiếp xúc được với thế giới bên ngoài là nhờ ở ba thành phần, gọi là “bộ ba Căn, Trần cảnh và Thức”.

Căn, là bộ phận cơ thể,

Trần cảnh, là đối tượng nhận thức của Căn

Thức, là phần tâm thức vô hình, vốn từ Chân Tâm vọng khởi mà chuyển thành, cũng tràn ngập khắp không gian như Chân Tâm, là cầu nối giữa Căn và Trần cảnh, tức là cầu nối giữa bộ phận cơ thể của chúng sinh và thế giới mà chúng sinh nhận thức, “cảm” hoặc “thấy” được.

Ðối với một cơ thể đã chết, bộ phận cơ thể, là Căn, đã ngưng hoạt động, có nghĩa là bộ ba đã mất một phần, thế thì những sinh hoạt về vật chất như ăn uống, hiển nhiên là không thể tiếp tục.

Có người cho rằng sau khi đã qua đời, người chết vẫn còn ăn, gọi là Thức thực. Như chúng ta đã biết, Thức vốn vô hình, nếu có Thức thực thì cũng chỉ là “cảm” được những tâm niệm thương ghét, an ủi, v.v… không thể “ăn” được món ăn vật chất. Nếu quả thật là còn có sự thèm ăn, thấy thân nhân bầy những món ngon, mà thần thức lại không thể ăn được, thì chỉ thêm thèm thuồng đau khổ mà thôi!

Sau đây là câu hỏi thứ hai:

“ Nếu nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm các điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao có nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ, phải không ạ.

Mẹ chúng tôi thì tin tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự độ chúng sinh” của các thầy, nên không niệm Phật tụng kinh, chỉ đến chùa làm công quả những ngày cuối tuần, cho là khi chết sẽ có các thầy lo”.

Đáp:

Ðể hiểu rõ hơn về vấn đề “làm Phật sự độ chúng sinh” và niềm tin “làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ”, chúng tôi xin gửi tới quý vị lời giải thích ghi trong bộ Giáo Khoa Phật Học cấp 2, do Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành, như sau:

…” … Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo hòa thượng Ðạo An, vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật giáo. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Ðường. Ðiều này có thể đúng vì theo sử chép, thì năm 738, vua Ðường Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa Khai Nguyên (Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền Tông). Ðó là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an. Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền trung ương. Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh này, số người chết — chiến sĩ của cả hai bên và thường dân –, nhiều vô kể. Triều đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến vừa qua, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân.

Dân chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân gian.”

Nhân đây, chúng tôi cũng xin kính gửi tới quý thính giả quan điểm của lão pháp sư  Tịnh Không về vấn đề “làm Phật sự độ chúng sinh” và niềm tin “làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ” này.

Lão hòa thượng Tịnh Không là một vị cao tăng Trung Hoa đương  thời, rất có uy tín, với một quá trình giảng kinh thuyết pháp gần năm chục năm. Ngài là người đi tiền phong trong việc sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền hình vệ tinh, mạng lưới thông tin toàn cầu và những phương tiện truyền thông hiện đại khác trong việc truyền bá Phật pháp trên khắp thế giới. Trong giới tu hành, nhiều người suy tôn ngài như một vị Tổ của tông Tịnh Ðộ. Ngài nói:

“Trong Phật pháp, nói Phật sự là giúp đỡ tất cả chúng sinh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, những sự việc này đều gọi là Phật sự.

Vậy còn hiện nay thì sao?

Hiện nay thì thời gian tiếp xúc với kinh điển cơ hồ ít hơn, nhìn thấy trong cửa Phật phần nhiều đều là lấy kinh sám “Phật sự siêu độ người chết”, cho rằng đây là Phật sự. Cho nên vừa nghe nói đến tiếng “Phật sự” là rất dễ sinh ra hiểu lầm. Những việc siêu độ vong linh này ở trong Phật giáo xuất hiện rất trễ …, rất trễ. Thời xưa ở Ấn Ðộ chẳng có.  Khi Phật giáo được truyền đến Trung quốc, lúc ban đầu cũng chẳng có. Vậy sự việc này xảy ra như thế nào?

Năm trước, trong buổi Phật học giảng tọa tại trường Ðại Học ở Ðài Loan do lão pháp sư Ðạo An chủ trì, đã có một sinh viên nêu vấn đề này ra để hỏi lão pháp sư. Hôm đó tôi cũng có mặt nên cũng đã có nghe. Lão pháp sư nói rằng sự việc này có thể là bắt nguồn từ giữa niên hiệu Khai Nguyên triều đại nhà Ðường. Vào thời gian đó, có loạn An Lộc Sơn tạo phản, giặc giã nổi lên khắp nơi. Nhờ có danh tướng Quách Tử Nghi tài giỏi mới bình định được nội loạn.

Khi an ninh đã được vãn hồi, nghĩ tới những linh hồn chết thảm còn vất vưởng lang thang nơi đồng hoang cỏ cháy không ai thờ cúng, triều đình cho xây tại mỗi bãi chiến trường một ngôi chùa đều lấy tên niên hiệu Khai Nguyên để đặt làm tên, rồi thỉnh quý vị cao tăng từ khắp các nơi về các chùa Khai Nguyên này để tụng kinh cầu siêu độ cho các vong hồn. Từ đó, tại mỗi bãi chiến trường lớn đều có một chùa Khai Nguyên. Nguồn gốc Khai Nguyên Tự như lão pháp sư Ðạo An đã nói, là do triều đình đề xướng, mở hội truy điệu, thỉnh những vị cao tăng đại đức tụng kinh cầu siêu độ.

Từ đó về sau, trong dân gian, khi gia đình có người qua đời, thì cũng thỉnh mời tăng ni đến tụng kinh cầu siêu. Như vậy là đối với Phật pháp, đây chính là việc phụ thêm, chẳng phải là công việc chủ yếu của Phật môn, chẳng phải !

Nhưng hiện nay thì nó lại đã trở thành chủ yếu mất rồi ! Hiện nay tại rất nhiều đạo tràng, người ta lấy việc này làm công tác chủ yếu. Cho dù có giảng kinh thì thời gian làm Phật sự chính yếu này cũng rất ngắn, rất ít. Có những chùa một năm giảng kinh bốn lần, trong bốn mùa Xuân Hạ Thu Ðông, mỗi mùa giảng một tuần, một năm giảng bốn tuần, chia cho bốn mùa. Cho nên Phật sự chính thức là giảng kinh thuyết pháp để chuyển mê khai ngộ cho dân chúng thì lại đã biến thành việc phụ, còn việc bái sám, cầu siêu đã biến thành “Phật sự” chủ yếu mất rồi. Ðiều này chúng ta phải có nhận thức rõ ràng, vào thời trước, Phật sự là giảng kinh thuyết pháp”

Ðối với việc cúng bái cầu siêu, chúng tôi xin nhắc lại ý kiến mà chúng tôi đã đề ra trong một kỳ trước, rằng người Đông Phương chúng ta, từ thời xa xưa, vốn đã có truyền thống cúng bái người đã qua đời, nhất là cúng bái tổ tiên, ông bà, cha mẹ, coi như một hình thức báo hiếu, trước là nói lên lòng thành kính tưởng nhớ chư vị đã khuất, sau là nhắc nhở con cháu nên tiếp nối mỹ tục biết cảm ơn các bậc sinh thành, cũng như mỗi quốc gia đều có những ngày kỷ niệm Chiến Sĩ Trận Vong, để nói lên lòng nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ có công với đất nước vậy. Chúng ta có từ ngữ “Ðạo Ông Bà”, nghĩa là theo truyền thống từ thời xa xưa, khi ông bà, cha mẹ, thân nhân qua đời, gia đình đem hình ảnh và bát hương bày lên bàn thờ, quanh năm hương khói, đến ngày giỗ thì làm cơm cúng, đó là tập tục của hầu hết những dân tộc Ðông Phương, nhất là tại những quốc gia ảnh hưởng đạo Khổng.

Như vậy, theo phong tục cổ truyền, việc cúng giỗ cũng là điều tốt, coi như là ngày kỷ niệm, tưởng nhớ người đã khuất. Chúng ta có thể tổ chức cúng giỗ tại nhà, hoặc tại chùa. Nếu đủ phương tiện để có thể làm lễ trên chùa thì rất tốt. Trước nhất, đây là một duyên lành giữa thân nhân người chết đối với nhà Phật, có dịp cho họ tiếp cận với các vị Sư, nhân đó, có thể hiểu thêm về Phật pháp. Thứ nữa là thân nhân người chết có thể tạo chút phước qua việc cúng dường Tam Bảo, để nhà chùa có thêm khả năng ấn tống kinh sách, phổ biến Phật pháp rộng rãi, thêm phương tiện để hoàn thành các Phật sự. Các vị Sư là những Trưởng Tử Như Lai, là những Ðạo Sư, có nhiệm vụ hoằng dương Chánh Pháp song song với việc tu tập bản thân.

Phật tử cũng vậy, cũng cần tu tập bản thân và giúp phương tiện cho các Ðạo Sư trong công cuộc hoằng truyền và bảo vệ sự trong sáng của đạo Phật.

Liên  Hương (ĐPK)

Nguồn: Thư viện Hoa Sen

Phóng sinh

Hỏi:

Vào các ngày lễ như lễ Phật Đản, lễ Vu Lan và lễ Rằm Tháng Giêng, tôi thấy các chùa thường có lễ phóng sinh tiếp ngay sau phần nghi thức lễ chính. Vậy xin vui lòng cho tôi biết ý nghĩa của việc phóng sinh và có phải phóng sanh sẽ làm giảm bớt nghiệp bệnh của mình hay được phước thật hay không? Có người nói rằng mua chim phóng sanh không có phước mà lại vô tình sát hại chim và bị những người buôn bán chim cá lợi dụng bắt nhiều thêm để bán thủ lợi, xin cho biết ý kiến.

Đáp:

Đạo Phật xuất hiện trên thế gian là từ thành quả tu hành của thái tử Tất Đạt Đa. Sau một quá trình thanh tịnh hóa tâm, thái tử bừng tỉnh, giác ngộ thành Phật. Phật là phiên âm của chữ Phạn “Buddha”, có nghĩa là “người tỉnh thức”. Từ ngữ Buddha dịch sang tiếng Trung Hoa là “giác giả ”, có nghĩa là “người giác ngộ”. Người Trung Hoa phiên âm chữ Buddha thành ra Phật Đà, hoặc Phật.

Do sự bừng tỉnh, giác ngộ này, đức Phật thấu suốt cội nguồn của thế giới hiện tượng tương đối, trực nhận được rằng tất cả các loài hữu tình chúng sinh cũng đều có đầy đủ trí huệ, giác tánh – còn gọi là Phật tánh – y như Ngài, cũng có khả năng thành Phật như Ngài. Cho nên tuyên ngôn đầu tiên của Ngài sau khi thành Phật là:

“Tất cả chúng sinh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai” 
và:
“Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. 

Từ ngữ chúng sinh ở đây không để chỉ riêng loài người, mà là bao gồm tất cả mọi loài sinh vật có cảm giác.
Đức Phật do tu chứng mà giác ngộ được những điều trên. Khoa học ngày nay dù không do tu chứng, nhưng nhờ những nghiên cứu, thí nghiệm, cũng đã xác nhận phát biểu của Ngài là có cơ sở thực tế, không phải là mê tín.

Bản tin về Đại Hội Khoa Học ở Dublin, Ái Nhĩ Lan hồi tháng Chín năm 2005 thông báo rằng, theo kết quả thí nghiệm của bác sĩ Filippo Aureli, đồng giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu về Nhân Chủng và Cổ Sinh Học của trường đại học Liverpool John Moores, thì có lẽ mối liên hệ giữa loài người và loài vật gần nhau hơn là những điều trước kia người ta đã tưởng.

Trình bày kết quả công trình nghiên cứu từ các thú vật có lông, bác sĩ Aureli cho biết rằng ông thấy chúng biểu lộ cảm xúc y như loài người trong đời sống hằng ngày. Ông giải thích rằng trong khi nghiên cứu, ông đã thấy chúng có những hành động như kỳ cọ thân thể để được sạch sẽ, lo lắng khi cảm thấy có điều bất thường, nguy hiểm có thể xảy ra. Trong tình trạng bồn chồn, khắc khoải, chúng cũng cắn móng chân hoặc bứt lông như loài người cắn móng tay, bứt tóc khi thần kinh căng thẳng. Ông cho rằng khỉ và vượn là những loài phân biệt đối xử dựa theo tình cảm bằng hữu rất rõ ràng. Tùy theo mối liên hệ thân sơ mà chúng quyết định cách ứng xử với đối phương khác nhau theo từng trường hợp.

Nhiều nhà khoa học trải qua những năm tháng theo dõi đời sống của loài vật nhận thấy rằng không phải chúng là những sinh vật vô cảm, chỉ biết ăn rồi sinh đẻ, như những bộ máy chỉ cần cho nhiên liệu vào là sản xuất . Trái lại, đời sống của chúng đầy ắp những tình cảm, cũng sôi động yêu đương, đau khổ vì ghen tuông, vì sự chết chóc của con cái, vân vân.

Một nhà nghiên cứu thú hoang kể lại rằng trong dịp theo dõi một đàn voi, ông chợt phát hiện một con voi lớn bỗng nhiên rời khỏi đàn, đứng lại, rống lên ai oán. Ông ta cố gắng tìm hiểu, thì phát hiện ra rằng con voi đó đang đứng bên cạnh một con voi nhỏ nằm dưới đất, có thể là con nó, dường như đã chết rồi. Theo dõi suốt hai ngày tiếp theo, ông thấy voi mẹ vẫn quanh quẩn bên voi con, và cả đàn voi thì cũng không đi xa, chỉ loanh quanh gần đó, như chờ đợi. Cho đến sáng ngày thứ ba, có lẽ voi mẹ đã nhận ra được thực tế chăng, hay là nhờ đồng loại thuyết phục, nên nó dùng vòi hất đất cát như muốn lấp xác con nó, rồi vừa rống lên thê thảm, vừa bước theo đàn ra đi.

Nhiều người trong chúng ta cũng đã từng chứng kiến những biểu lộ tình cảm của loài vật. Chúng ta cũng đã được nghe kể về những con chó trung thành với chủ, bỏ ăn khi chủ đi xa, hoặc như tại địa phương kia, có con chó chiều chiều ra sân ga xe lửa đón chủ đi làm trở về. Một hôm, chủ bị bạo bệnh bất thình lình ở sở, được chở vào nhà thương rồi qua đời. Vì không có thân nhân lãnh xác nên bạn bè chôn cất ngay tại nghĩa địa gần nhà thương. Con chó vẫn như thường lệ, ngày ngày ra ga ngồi đón chủ hàng mấy tiếng đồng hồ, cho tới đêm tối lại lủi thủi một mình về nhà. Mọi người thấy lạ, đem đồ ăn cho mà nó không ăn. Mãi tới hai tuần lễ sau, nó gầy rạc rồi nằm lử ra ở sân ga mà chết. Dân chúng gần đó bèn xây một bức tượng của nó ngay tại sân ga để vinh danh tấm lòng trung thành của nó đối với chủ.

Có rất nhiều câu chuyện về lòng trung thành của loài vật nuôi trong nhà, được chủ âu yếm, săn sóc, đã đối đáp lại bằng những tấm chân tình. Ngay cả những con vật không được săn sóc, âu yếm, sự biểu lộ cảm xúc, lo âu của chúng nó cũng rất rõ ràng, thí dụ những người ở gần lò sát sinh, như lò heo Chánh Hưng, thường kể lại những câu chuyện thương tâm khi những con bò bị lôi vào lò mổ, có thể là do linh tính báo trước, hoặc do mùi đặc biệt nơi lò sát sinh, mà chúng thường trì lại, đôi khi khuỵu hai chân trước xuống như van lạy, nước mắt ứa ra từ cặp mắt bi thương, thống thiết. Có những bà nội trợ kể chuyện khi làm món ếch xào lăn phải lột da con ếch, thấy nó chắp hai chân trước như là người ta chắp tay lạy xin tha mạng.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tuy loài vật không thể biểu lộ cảm xúc bằng ngôn từ của loài người, thay vào đó, chúng phát biểu bằng hành động.

Đức Phật là bậc Toàn Trí và Toàn Bi. Sau khi thành đạo, Ngài dùng tất cả quãng đời còn lại gần nửa thế kỷ để đi các nơi từ gần đến xa mà giáo hóa chúng sinh. Tựu trung, những lời dạy dỗ của Ngài đều nhằm mục tiêu phát triển lòng từ bi và trí tuệ nơi con người. Những lời dạy đó đã được chư đệ tử của Ngài thu thập và viết lại trong kinh tạng, nhờ vậy, chúng ta ngày nay tuy ra đời sau khi Phật diệt độ đã trên hai ngàn năm trăm năm, mà vẫn còn được thấm nhuần những lời dạy dỗ vàng ngọc của Ngài.

Về mặt Trí Tuệ, Ngài dạy các phương pháp thiền quán, giữ gìn giới hạnh, tu tập để sống tỉnh thức, hóa giải Tham Sân Si, thanh tịnh hóa tâm.

Về mặt Từ Bi, đức Phật dạy mở rộng lòng trắc ẩn, tăng trưởng tình thương đối với chúng sinh, không chỉ riêng đối với loài người, mà còn phải dàn trải tâm từ tới tất cả các chủng loại sinh vật, vốn cũng có giác quan cảm xúc, cũng biết đau đớn, thậm chí cũng biết ghen tuông, buồn vui, biết thương yêu cha mẹ con cái, đau khổ khi phải biệt ly nhau, y như con người.

Với hành trang tinh thần phong phú và cao quý đó trong tâm, chư Tăng Ni và các Phật tử thuần thành của nhà Phật đều siêng năng thực hành lời dạy này. Đó là nguồn gốc của tục lệ phóng sinh trong những dịp lễ lớn của nhà Phật, hành động đã trở thành một biểu tượng nói lên lòng tri ân sâu xa, như là một lễ vật tinh thần thiêng liêng dâng lên đức Phật, để tỏ lòng thành kính vâng theo những lời dạy của Ngài.

Vậy phóng sanh là gì?

Phóng sanh có nghĩa là giải thoát những sinh vật đang bị tù đày, giam hãm trong lồng chậu, nhà giam, đang bị tra tấn, đánh đập hoặc sắp bị giết, tức là hành động mang lại sự sống cho chúng sinh đang bị đe dọa đến tính mạng.

Bắt nguồn từ hai bộ kinh Phật giáo Bắc Tông là kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới và kinh Kim Quang Minh, tục lệ phóng sinh được phát triển mạnh ở Trung Hoa, truyền sang Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.

Trong kinh Phạm Võng, đức Phật dạy:

“Người con Phật vì lòng từ bi mà làm việc phóng sanh và khuyên bảo người khác làm. Nếu thấy người đời sát sanh thì nên tìm cách cứu cho chúng được thoát khỏi nạn khổ.”

Kinh Kim Quang Minh cũng kể lại những thí dụ về lòng từ bi cứu giúp chúng sinh khỏi chết.

Vào thời đại nhà Tùy bên Trung Hoa, đại sư Trí Khải ở núi Thiên Thai truyền giảng kinh Kim Quang Minh và kinh Pháp Hoa, phát động phong trào đào ao phóng sinh, tiết kiệm tiền để mua lương thực nuôi cá. Sự việc này mở đầu cho việc phóng sinh và đào ao phóng sanh ở Trung Hoa từ đó. Đến cuối đời nhà Minh có đại sư Liên Trì là một trong những cao tăng rất tích cực truyền bá việc phóng sinh. Ngài đã để lại các bài thuyết giảng về ăn chay, về giới sát, về phóng sinh, cũng như về nghi thức phóng sinh trong tập “Trúc Song Tùy Bút”, khuyên mọi người không nên ăn thịt chúng sinh để khuyến khích tôn trọng giới sát và tích cực phóng sinh.

Tục phóng sinh được phát khởi từ tinh thần từ bi và bình đẳng giữa chúng sinh. Phóng sinh cũng như ăn chay, chính là một phần của việc giữ giới không sát sinh, một trong năm giới cấm mà người Phật tử khi quy y Tam Bảo thường phát lên lời nguyện giữ gìn, không vi phạm.

Gần năm chục năm giáo hóa chúng sinh, đức Phật để lại rất nhiều lời dạy trong kinh tạng, nhưng tóm lại đều cô đọng trong mấy câu sau đây:

— Không làm điều ác
— Siêng làm việc thiện
— Thanh tịnh hóa tâm 

Không sát hại sinh vật, dù gián tiếp như ăn thịt động vật, hoặc trực tiếp như cầm dao giết con vật, là làm việc thiện một cách thụ động, nằm trong lời dạy thứ nhất “Không làm điều ác” 

Phóng sinh cứu mạng sống, là làm việc thiện tích cực, nằm trong lời dạy thứ hai “Siêng làm việc thiện”

Đối với những người tu tập trên con đường Bồ Tát đạo thì ngoài những giới luật gọi là “chỉ trì”, là những giới “cấm không được làm”, còn phải giữ những giới gọi là “tác trì”, nghĩa là những giới “phải làm”, thí dụ nếu thấy có sự lâm nguy, đau khổ tới cho chúng sinh mà người tu theo Bồ Tát đạo lại khoanh tay đứng nhìn, không giúp kẻ khốn cùng, thì tức là đã phạm vào giới “tác trì”, tức là giới “phải làm”.

Như thế theo tinh thần này, người Phật tử không những không sát hại sinh vật mà còn phải cứu sinh vật đang bị đe dọa đến tính mạng, đang bị giam giữ tù đầy trong lồng chậu, cứu cho chúng khỏi chết, nghĩa là giải thoát chúng, trả tự do cho chúng về với bầu trời sông nước, về với gia đình tổ ấm của chúng. Chính vì vậy, theo truyền thống Phật giáo Bắc Tông, Giới Sát bao gồm cả việc phóng sinh.

Như vậy, phóng sinh là một việc làm rất tốt, rất đáng đươc ca ngợi. Tuy nhiên, nhà Phật có câu “tùy duyên, bất biến”. Bản chất của sự tu hành để tăng trưởng lòng từ bi là bất biến. Nhưng trong hành động thì cần tùy duyên, nghĩa là tùy trường hợp, tùy địa phương mà hành động, để vẫn có thể phù hợp với chân lý, đồng thời cũng hợp thời, hợp cảnh, kinh Phật gọi là khế lý và khế cơ.

Vào thời xa xưa, trong những dịp lễ có phóng sanh, các cụ mua cá cho bơi trong chậu nước hoặc mua cả dỏ cua đồng, loại cua nhỏ bằng ngón chân cái, đem lên chùa cúng rồi đem ra sông thả. Sau khi được thả, mấy con vật thường lặn ngay xuống nước.

Ngày nay thì khác. Chúng ta ở trong thành phố nên ít khi có được cá hoặc cua sống, cho nên chúng ta mua chim để thả. Những con chim bị bắt để bán cho người phóng sinh này thường phải chờ đợi một thời gian trước khi tới giờ phút được tháo cũi xổ lồng. Trong thời gian chờ đợi đó, chúng không được săn sóc chu đáo vì dường như không ai có bổn phận phải chăm lo cho mấy con chim trong lồng nằm chờ nơi góc sân kia được ăn uống no đủ.

Chúng tôi xin trình bày một trường hợp cụ thể về phóng sinh ngay tại một ngôi chùa ở quận Cam. Vì phải trải qua nhiều thời gian chờ đợi buổi lễ cầu an, cầu siêu nên chim đã chịu đói khát, lại phải chịu thân phận tù đày thêm cả buổi nữa ngay nơi chánh điện chùa. Cuối cùng, sau khi chấm dứt phần chót của lễ quy y cho chúng do vị Thượng Toạ chủ lễ thì chim cũng được sổ lồng đấy, nhưng có một số đã quá yếu sức, lừ đừ, bay lên không nổi, chỉ là đà rồi rớt xuống, quờ quạng, tắt hơi.

Vậy thì chúng ta cần phải xét lại việc phóng sinh chim và thả cá. Chim bị bắt nhốt vào lồng, cá bị bắt thả trong chậu bán ngoài chợ là do người giăng lưới vây bắt vì nhu cầu tiêu thụ, để ăn hoặc để phóng sinh. Điều này có nghĩa là nếu không có nhu cầu mua chim cá thì chim cá sẽ không bị giăng lưới và nhốt vào lồng chậu.

Qua sự kiện này chúng ta nhận thấy, vì muốn phóng sinh nhằm tạo phước mà người phóng sinh lại vô tình thúc đẩy những người khác giăng lưới bắt chim cá, đến nỗi tự họ lại mắc vào nghiệp sát sinh.

Ngoài ra, chim cá bán ngoài thị trường để cung ứng cho nhu cầu phóng sinh tại các đô thị thường là do người ta bắt ở các ao cá, vườn chim. Những sinh vật này có thể sẽ không thích ứng với hoàn cảnh mới.

Hơn nữa, các giống chim, cá đều có thói quen của chúng. Có những loài cá phải sống trong những hoàn cảnh nhất định như chất nước, độ sâu, độ chảy. Cá sông không thể sống dưới biển và cá biển không thể sống dưới sông. Chỉ có những con chim bồ câu bị bắt để phóng sinh thì may ra ít khổ nhất, chúng chỉ bị tù túng mấy ngày, có thể là phải chịu đói khát, nhưng nếu sống sót cho đến lúc được phóng sinh mà còn đủ sức để bay thì cũng có nhiều cơ may có thể “trở về mái nhà xưa”, vì loài chim bồ câu vốn nhớ đường về, chúng sẽ có thể bay về với gia đình, sẽ được chủ nó cho ăn uống bồi bổ lại sau những ngày bị giam cầm tù tội và đói khát.

Trong tình hình như vậy, có nên phóng sinh hay không ? Điều này xin quý vị tự định đoạt.

Tuy nhiên, việc bắt, mua bán rồi thả, rồi bắt lại ..v..v..là không đúng với tinh thần phóng sinh. Phóng sinh chỉ có ý nghĩa khi chúng ta giải thoát được con vật trong hoàn cảnh ngẫu nhiên hay thả chúng sống trong một môi trường thích hợp, tạo cho chúng có cơ hội sống dài lâu hơn. Không nhất thiết phải mang chúng đến chùa mới phóng sinh được. Chỗ nào thích hợp thì thả chúng.

Thật ra việc phóng sinh ai cũng có thể làm, không nhất thiết phải có tiền (mua chim cá) mới thực hành được. Chỉ cần có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh, xem mọi loài chúng sinh đều bình đẳng, đều có quyền sống. Khi đi bộ trên đường thấy con giun đang giẫy giụa trước sức nóng mặt trời, chúng ta mang chúng vào nơi có đất ẩm, hay gặp con sên đang bò trên vỉa hè, chúng ta nhặt chúng đem vào bãi cỏ xanh mát. Hoặc là khi khởi tâm muốn phóng sinh, chúng ta rủ bạn bè, thân nhân, đi ăn một bữa cơm với rau đậu, như thế là chúng ta cũng đã có thể cứu dăm ba mạng tôm, cua, sò, cá, chim câu, vân vân, thế là cũng đã thực hiện hạnh phóng sinh rồi.

Theo quy luật nhân quả, mình có lòng muốn cho chúng sinh khỏi đau đớn, giải thoát chúng sinh, thì mình cũng sẽ được khỏi đau đớn, được giải thoát. Nhưng đó chỉ là kết quả tự nhiên của những hành động từ thiện, không phải mục tiêu của sự phóng sinh trong nhà Phật. Nhà Phật phóng sinh là vì lòng từ bi.

Nói như thế không có nghĩa là hành động phóng sinh chỉ đem lại ít lợi ích. Thật ra việc phóng sinh đúng cách và với Tâm Vô Sở Cầu thì sẽ có kết quả vô cùng lớn lao, là vơi đi nghiệp sát đã vướng phải trong vô lượng kiếp.

Nguồn: Thư viện Hoa Sen.

Vấn đề cúng lễ người quá vãng

Hỏi:

Ba tôi mất tháng 10 này sẽ là một năm. Lúc đầu thì mẹ tôi đem tro của ba tôi vào chùa ký gởi nhờ thầy tụng kinh. Sau đó như ý nguyện của ba tôi, mẹ tôi đem tro về chôn ba tôi gần mộ ông bà nội tôi. Thế là ở nhà tôi chỉ có tấm hình của ba tôi, chỉ vậy thôi, không có thường cúng kiếng gì cả.

Tôi thấy ở Việt Nam, gia đình có người thân thì hay tụng kinh cho người đã khuất. Tôi sắp về Việt Nam. Tôi xin hỏi quý vị rằng tôi có nên nhờ thầy tụng kinh cho ba tôi không? Tôi nghe nói, nếu mà mình nhờ thầy nào đắc đạo cao hơn, thì linh hồn người chết sẽ có hy vọng được siêu thoát. Tôi không biết điều đó có đúng không và tôi phải làm như thế nào để linh hồn của ba tôi được siêu thoát? 

Đáp:

Về nghi thức cúng kiếng, cầu nguyện cho người qua đời thì tôn giáo nào cũng có. Không những thế, ngay cả từ thời kỳ mông muội, chưa có tôn giáo, cũng đã có những sự cầu nguyện các đấng mà họ nghĩ là linh thiêng, nhiều quyền phép nào đó, để che chở, cứu vớt người thân đã chết của họ.

Họ làm vậy vì trước những tai họa xảy đến, con người cảm thấy quá bé nhỏ trước thiên nhiên, nên nảy sinh nỗi sợ hãi mênh mông đối với bóng tối, sấm chớp, núi cao, sông sâu, dịch bệnh, vân vân, họ tưởng tượng ra nhiều loại thần, nhiều loại ma, và khi người thân chết đi, họ thương xót, thấy là từ nay không còn giúp đỡ, bảo vệ được người thân nữa, họ bèn nghĩ tới các Thánh Thần, đến những nhân vật được tưởng tượng ra từ biết bao nhiêu đời trước mà cho đến nay thì đã được tô đậm thành những hình ảnh huyền bí, đầy quyền năng nơi cõi u linh nào đó chưa ai biết tới, nhưng là nơi mà họ tin rằng thân nhân họ có lẽ đang bơ vơ lạc lõng trong đó.

Từ niềm thương xót người thân mà nay mình đã đành chịu bất lực, họ cầu cứu đến các đấng được gọi là khuất mày khuất mặt đầy bí mật, các đấng đã được những kẻ lợi dụng hình ảnh linh thiêng để hù dọa thân nhân người đã chết, khiến cho họ phải biện lễ hậu hĩnh đến xin xỏ các lọai Thần Thánh này.

Ðạo Phật khi tới các vùng đất mới, thường uyển chuyển hội nhập, gọi là tùy duyên phương tiện, dùng bình của địa phương đựng nước Cam Lồ của nhà Phật, cho nên bên cạnh những nguyên tắc sống Từ Bi Hỉ Xả, tham thiền, nhập định, hành trì tu tập trong khuôn khổ của đạo Giác Ngộ, các tu sĩ Phật giáo vẫn tham dự các nghi lễ vốn có từ ngàn xưa của địa phương, chỉ tùy thời mà từ từ chuyển hóa họ.

Cho nên, trên con đường Bắc truyền, một số hình thức lễ nghi của những vùng mà đạo Phật đi qua vẫn cùng với đạo Phật chung vai sát cánh ôn hòa. Một số quốc gia trong trường hợp này vốn sẵn có những nền đạo học rất uyên áo, sâu sắc, thí dụ Khổng giáo, Lão giáo, vân vân. Cúng kiếng là một lễ nghi quan trọng của Khổng giáo, coi như là một nguyên tắc sống của con người. Cúng giỗ là một hình thức báo hiếu. Không có con trai nối dõi tông đường để thờ cúng tổ tiên bị coi như là tội đại bất hiếu. Trong niềm tin ấy, đạo Phật muốn sống hài hòa với đời, tất nhiên là cũng tùy duyên mà áp dụng các nghi thức cúng bái, miễn sao không trở nên quá mê tín, vi phạm vào quy luật nhân quả là niềm tin cốt tủy của Phật tử trong thế giới hiện tượng tương đối mà thôi.

Vậy thì đạo Phật quan niệm thế nào về sự cúng kiếng cho người chết?

Muốn trả lời câu hỏi này, chúng ta cần tìm hiểu coi đạo Phật quan niệm thế nào về Sinh và Tử và theo đạo Phật thì có một linh hồn trường tồn sống mãi mãi trong một cõi giới u linh nào đó để hằng năm trở về nhà con cháu ăn một bữa cơm không?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy cùng đọc một bài pháp, lược trích trong cuốn Ðức Phật và Phật Pháp do Hòa Thượng Narada biên soạn theo kinh sách nhà Phật và do cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch:

“Theo triết học Phật Giáo (Vi Diệu Pháp), ba hiện tượng có thể xuất hiện cho con người thấy trong giai đoạn hấp hối là:

– Nghiệp,
– Hiện Tượng Của Nghiệp,
– và Biểu Hiện Lâm Chung.

Nghiệp là hành động tốt hay xấu trong đời sống hoặc ngay trước phút lâm chung. Nếu người hấp hối đã phạm một trong năm tội nặng là các tội giết cha, giết mẹ, giết một vị A La Hán, làm tổn thương Ðức Phật và chia rẽ Tăng chúng, hoặc người ấy có một thiện nghiệp lớn như đã đắc một trong các tầng Thiền, thì sẽ chứng nghiệm Hiện Tượng cùa Nghiệp trước khi chết. Những hành động thiện hay bất thiện đặc biệt ấy có năng lực thật mạnh, chen vào, áp đảo tất cả các hành động khác và biểu hiện thật rõ rệt trước mắt người hấp hối.

Nếu không có Nghiệp xấu hoặc tốt mạnh mẽ như vậy thì có thể tiến trình tư tưởng cuối cùng của người ấy sẽ tùy theo cái Nghiệp vừa tạo liền trước khi chết, gọi là Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là hành vi cuối cùng hoặc hành vi nào mà luồng tư tưởng cuối cùng sực nhớ ra ngay lúc lâm chung.

Nếu không phải Cận Tử Nghiệp thì có thể là Thường Nghiệp, là những việc mà đương sự thường làm hằng ngày, hoặc thưòng nhớ đến và ưa thích hơn hết. Trong trường hợp này, nếu người hấp hối là một bác sĩ thì thấy đang săn sóc bệnh nhân, một nhà tu thì thấy đang thuyết pháp, một tên trộm thì thấy đang cạy cửa, khoét vách v.v…

Nếu ba trường hợp trên không xảy ra thì Nghiệp Tích Trữ xuất hiện. Nghiệp Tích Trữ gồm tất cả những trường hợp không kể trong ba loại Nghiệp trên, mà là những hành động tốt hoặc xấu thông thường.

Hiện Tượng của Nghiệp là những biểu tượng xuất hiện trong tâm thức của người hấp hối dưới hình thức sắc, thanh, hương, vị, xúc hay pháp, tức là những hình sắc, âm thanh, mùi, vị hay tư tưởng mạnh mẽ, quen thuộc trong nếp sinh hoạt hằng ngày, thí dụ người đồ tể thì thấy con dao hay con thú chết, bác sĩ thì thấy bệnh nhân, người mộ đạo thì thấy các món lễ vật vân vân…

Biểu Hiện Lâm Chung là vài dấu hiệu có liên quan đến cảnh giới mà người hấp hối sắp được tái sanh vào mà do đó, mặt người sắp lâm chung lộ vẻ vui sướng hoặc đau khổ. Khi triệu chứng phát sinh, nếu là xấu thì ta có thể sửa chữa kịp thời bằng cách giảng kinh hay nói pháp để tạo đối tượng tốt đẹp trong tư tưởng người sắp chết. Những Biểu Hiện Lâm Chung thường là lửa, rừng, vùng sơn cước, bào thai người mẹ, thiên cung v.v…

Dầu trong trường hợp bất đắc kỳ tử, tiến trình tư tưởng của người sắp chết vẫn diễn tiến và đối tượng của chập tư tưởng cuối cùng ấy là một trong ba hiện tượng: Nghiệp, Hiện Tượng của Nghiệp và Biểu Hiện Lâm Chung .

Thí dụ một người sắp lâm chung và sẽ tái sanh vào cảnh người thì đối tượng của chập tư tưởng cuối cùng là một vài nghiệp tốt.

Cái chết thật sự đến lúc Tử Tâm tức luồng tâm thức cuối cùng chấm dứt. Kể từ đó tâm và vật thực không còn tạo năng lực vật chất nữa. Chỉ còn một loại năng lực vật chất phát sanh do hơi nóng tiếp tục tồn tại đến khi cơ thể vật chất tan rã.

Sự diệt tắt của tâm trong kiếp vừa qua là cơ hội để cho một tâm mới phát sanh trong kiếp sống kế. Tuy nhiên, không có cái gì vĩnh cửu, nguyên vẹn đơn thuần, không biến đổi, được chuyển từ quá khứ sang hiện tại. Cũng như bánh xe lăn tròn trên đường, mỗi một lúc chỉ có một điểm của bánh xe chạm với đường. Nói một cánh chính xác, chúng ta chỉ sống trong từng chập tư tưởng. Ta chỉ sống trong hiện tại và hiện tại nhất định phải trôi vào dĩ vãng.

Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, trong một khoảnh khắc, mỗi chập tư tưởng đều trải qua sanh, trụ, rồi diệt, và trong khi diệt, nó chuyển tất cả năng lực và cảm giác đã ghi nhận cho chập tư tưởng kế. Vậy mỗi chập tư tưởng mới gồm những năng lực tiềm tàng của chập trước và thêm vào đó chút gì khác. Ðến lúc chết, chập tư tưởng cuối cùng chấm dứt, để nhường chỗ cho chập tư tưởng kế phát sanh trong kiếp sống mới. Vậy, cái Thức mới gồm chứa tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ, vì tất cả những cảm giác trong quá khứ đều được ghi nhận trong cái tâm biến đổi, và tất cả tiềm năng đều được chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác, mặc dầu phần vật chất tan rã. Vì lẽ ấy, đôi khi có người còn nhớ được kiếp quá khứ của mình. Nếu trí nhớ chỉ tùy thuộc vào bộ não, tức nhiên không thể có người nhớ được tiền kiếp.

“Chúng sanh mới” là sự biển hiện của luồng nghiệp trong hiện tại, không giống hệt, không phải là một, nhưng cũng không hoàn toàn khác với chúng sanh trước kế đó.

“Những thành phần (ngũ uẩn) tạo nên chúng sanh ấy không giống hệt, không phải là một với thành phần (ngũ uẩn) đã tạo nên chúng sanh trước. Tuy nhiên, cũng không phải hoàn toàn là khác vì cả hai cùng nằm chung trong một luồng nghiệp, mặc dầu biểu hiện dưới hình thức mới, trong thế gian mà ngũ quan ta có thể thâu nhận, và ta cho là có một “chúng sanh mới.”

Theo Phật giáo, cái chết là sự chấm dứt của đời sống tâm-vật-lý của cá nhân. Chết là sự diệt tắt của sinh lực, tức là đời sống tâm linh và vật lý, cùng với hơi nóng và thức.

Chết không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng sanh không bị tiêu diệt.

Cũng như ánh sáng đèn điện là biểu hiện bề ngoài mà ta có thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là biểu hiện bề ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn có thể vỡ và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn tồn tại, và ánh sáng có thể phát hiện trở lại nếu ta đặt vào đấy một bóng đèn khác. Cũng như thế, sự tan rã của thể xác không làm xáo trộn luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt của thức hiện tại dẫn đến sự phát sanh mới. Tuy nhiên, không có gì trường tồn bất biến, như một thực thể đơn thuần, “chuyển” từ hiện tại sang tương lai.

Trong trường hợp nêu trên, nếu người chết tái sanh trở lại vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên là một loại tâm thiện. Thức-tái-sanh là từ tâm thiện ấy phát sanh, tự nhiên chuyển đến cái trứng và tinh trùng tương xứng trong cảnh người.

Như thế có nghĩa là cho đến lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn luôn luôn trôi chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn. Ngay lúc chết những chập tư tưởng vẫn liên tục kế tiếp như trong đời sống.

Hiện tượng chết và tái sanh diễn ra tức khắc, dầu ở bất cứ nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra trong không gian được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết ngay đến tái sanh, không trải qua một trạng thái chuyển tiếp nào. Phật giáo thuần túy không chủ trương có linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào, chờ đến khi tìm được một nơi thích hợp để đầu thai”.

Trên đây là quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy, hay còn gọi là Nam Tông.

Về phía Phật giáo Bắc Tông, hay còn gọi là Ðại Thừa, thì quan niệm rằng không hẳn là tất cả mọi người sau khi chết đều tái sinh ngay lập tức. Trường phái này quan niệm rằng những người có nghiệp cực thiện thì ngay sau khi chết sẽ sanh vào các cõi Tịnh, thí dụ cõi Tây Phương Tịnh Ðộ, Ðông Phương Tịnh Ðộ, vân vân, và những người có nghiệp cực ác thì sau khi chết sẽ sanh ngay vào các cảnh giới ác, như Ðịa Ngục, Ngạ Quỷ hoặc tái sinh thành các loài súc sinh. Trường hợp đó gọi là chết đây sinh kia.

Ngoài các trường hợp đó, sau khi chết, người ta còn có thể còn lưu tâm thức lại một thời gian trong trạng thái gọi là Thân Trung Ấm,và mơ màng trong cảnh giới này từ 1 lần 7 ngày, cho tới 7 lần 7 ngày, là 49 ngày. Trong thời gian đó, nhất là 21 ngày đầu, người đã qua đời vẫn còn có ấn tượng mạnh mẽ về kiếp sống vừa qua. Và chính từ niềm tin này, người ta coi trọng sự cầu nguyện để giúp chuyển hóa tâm trạng người chết khiến cho thần thức của họ hòa nhập được vào các cõi an lành.

Như vậy thì cả hai truyền thống Phật giáo, Bắc Tông và Nam Tông đều không nói đến những hình thức cúng kiếng cho người đã chết từ lâu, hàng năm trời, mà chỉ có thể giúp cho người mới chết qua những lời kinh tiếng kệ, qua lòng chí thành thanh tịnh của chư vị chân tu và thân nhân, hy vọng họ chuyển hóa các tâm niệm xấu để nghiệp nhân đó mà cũng chuyển thôi.

Tuy nhiên, như trên đã nói, cúng giỗ thân nhân đã qua đời, nhất là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đối với người Ðông Phương, là một hình thức báo hiếu, trước là nói lên lòng thành kính tưởng nhớ chư vị đã khuất, sau là nhắc nhở con cháu nên tiếp nối mỹ tục biết cảm ơn các bậc sinh thành, cũng như mỗi quốc gia đều có những ngày kỷ niệm Chiến Sĩ Trận Vong, để nói lên lòng nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ có công với đất nước vậy.

Về việc cúng giỗ này, chúng ta có thể tổ chức tại nhà, hoặc tại chùa. Nhưng nếu đủ phương tiện để có thể làm lễ trên chùa thì rất tốt. Trước nhất, đây là một duyên lành giữa thân nhân người chết đối với nhà Phật, có dịp cho họ tiếp cận với các vị Sư, nhân đó, có thể hiểu thêm về Phật pháp. Thứ nữa là thân nhân người chết có thể tạo chút phước qua việc cúng dường Tam Bảo chút tịnh tài (là đồng tiền trong sạch, lương thiện), để nhà chùa có thêm khả năng ấn tống kinh sách, phổ biến Phật pháp rộng rãi, thêm phương tiện để hoàn thành các Phật sự.

Các vị Sư là những Trưởng Tử Như Lai, có nhiệm vụ hoằng dương Chánh Pháp song song với việc tu tập bản thân. Phật tử cũng vậy, cũng cần tu tập bản thân và giúp phương tiện cho các Sư trong công cuộc hoằng truyền và bảo vệ sự trong sáng của đạo Phật.

Nói rằng: “Tôi nghe nói, nếu mà mình nhờ thầy nào đắc đạo cao hơn, thì linh hồn người chết sẽ có hy vọng được siêu thoát.” là mê tín. Đạo Phật không tin chuyện “người này có thể ban phúc giáng họa cho người kia” mà họa phúc đều do chính đương sự tự tạo và tự giải nghiệp.

Nếu có chuyện người này có thể cầu cúng cho người kia siêu thóat thì Đức Phật và chư Bồ Tát đại từ đại bi đã hóa phép cứu hết thảy 5, 6 tỷ chúng sinh ra khỏi biển khổ, đâu còn những sinh linh sống dở chết dở khắp thế giới nhất là tại các nước Phi Châu, sống khốn khổ, chết từ từ trong cảnh đói khát, dịch bệnh và súng đạn, chiến tranh liên miên khắp nơi.

Trích Thư viện Hoa Sen

Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ không ăn chay

HỎI:

– Có người xem lịch sử Việt Nam thấy Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, là một vị giác ngộ, thầy của vua Trần Nhân Tông, sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm cũng ăn mặn nên nói rằng ăn chay không cần thiết. Lý này là thế nào? Có phải Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn mặn không?

ĐÁP:

Theo sách Thiền Sư Việt Nam [1] thì Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ thọ Bồ Tát Giới, thầy của vua Trần Nhân Tông, sáng tổ Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, do đó không có ý gì nghi ngờ về việc ngài ăn mặn hay ăn chay vì trong 10 giới trọng và 48 giới khinh của Bồ Tát Giới có giới cấm sát sinh (giới trọng thứ nhất), giới cấm không được ăn tất cả thịt của mọi loài chúng sinh (giới khinh thứ 3), và giới cấm cất chứa những khí cụ sát sinh (giới khinh thứ 10).

Việc ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ ăn mặn là nhân một bữa tiệc do em gái ngài, Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, thiết đãi khách quí trong hoàng cung. Mặc dù trên bàn tiệc có cả thức ăn chay và thức ăn mặn, nhưng ngài vẫn điềm nhiên ăn thịt cá. Thái Hậu thấy lạ mới hỏi:

“Anh tu thiền mà ăn cá thịt thì thành Phật sao được?”

Ngài cười đáp:

” Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần làm Phật, Phật không cần làm anh..”

Có nhiều nghi vấn và giải thích về việc nầy. Một trong những lời giải thích cho là hành động ăn thịt cá của Thượng Sĩ nhằm mục đích đả phá quan niệm sai lầm rằng ăn chay là đủ để thành Phật của Hoàng Thái Hậu, ý ngài muốn nói sự tu tâm mới là điều quan trọng. Ngài là bậc giác ngộ, tâm đã bình đẳng, đã thoát ra khỏi qui luật của thế giới hiện tượng tương đối, mọi sự việc xảy ra trong đời đối với ngài chỉ còn là câu truyện trong giấc mộng đêm qua, mọi hành động của ngài đều là tùy duyên phương tiện tháo đinh nhổ chốt cho chúng sinh còn kẹt mà thôi.

Chú thích:
1. HòaThượng Thích Thanh Từ, Thiền Sư Việt 
Nam, in tại Hoa Kỳ 1995. Trang 256 

Nguồn Thư viện Hoa Sen

Vô thường – Không bám níu

Nhà Phật quan niệm:

“Cuộc đời thì vô thường, đầy bất trắc, sự sống chỉ có mặt ngay trong giây phút hiện tại”.

Nếu chúng ta nhìn kỹ lại bản thân thì sẽ thấy là dường như chúng ta ít khi thực sự sống ngay trong giây phút hiện tại, mà thường để tâm trí hồi tưởng về những việc trong quá khứ hoặc suy nghĩ, tính toán tới những chuyện sẽ xảy ra trong tương lai.

Trong khi đó, đối với những người và việc trước mặt, ngay trong hiện tại, thì lại lơ là, thấy như phơn phớt ẩn hiện trước mắt, chứ chúng ta không chú tâm, không sống hết mình với giây phút hiện tại. Đôi khi người đối diện chúng ta nói, nhưng chúng ta thì lại còn đang mải nghĩ về những vấn đề nào đó của riêng mình, nên chỉ nghe thấy tiếng ồn ào mơ hồ mà không hiểu họ nói gì, đến nỗi chính người đối thoại phải hỏi:

“Ủa, đang nghĩ gì thế, có nghe tôi nói không vậy?”.

Đó là tình trạng “sống say, chết mộng”, không “thực sự sống”.

Đức Phật là vị giác ngộ. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ.

Giác ngộ cái gì?

Giác ngộ chính con người thật, bộ mặt thật từ ngàn đời trước khi chúng ta trôi lăn vào dòng sông sinh tử, bị làn sóng tâm ý thức lôi cuốn, nhận chìm vào vòng vô minh tham ái sinh diệt, tạo ra cái thế giới hiện tượng tương đối này, nó vốn là cái gì?

Nhà Phật quan niệm rằng giác ngộ được nguồn gốc của kiếp nhân sinh rồi thì mình sẽ tự giải thoát được, ra khỏi sự ràng buộc của mê vọng, của vòng luân hồi sinh tử. Muốn thế, người hành giả phải hoàn toàn thanh tịnh hóa được tâm mình, chấm dứt mọi suy nghĩ mông lung, tâm viên ý mã.

Mục tiêu tối hậu là giác ngộ giải thoát hoàn toàn, nhưng giáo lý nhà Phật đã chia con đường lớn ra thành từng giai đoạn nhỏ để mọi người, tùy theo hoàn cảnh, cơ duyên, đều có thể tự mình đạt được từng bước giải thoát trong đời sống hằng ngày. Những bước giải thoát nho nhỏ này chính là sự thực tập trong ngày, dành đôi chút thì giờ để “sống trong giây phút hiện tại”. Đó chính là những giây phút mà tâm trí con người thoát ra khỏi sự o ép căng thẳng vì những sự suy nghĩ triền miên về quá khứ và tương lai.

Những nỗi thống khổ của kiếp người có thể chia đại cương ra thành hai nhóm, thân khổ và tâm khổ. Nghèo đói, bệnh tật, vân vân, là thân khổ. Buồn rầu ghen tức, tiếc nuối, lo sợ, vân vân, là tâm khổ. Nhưng thường thì hai loại khổ này liên đới với nhau, thân khổ thì tâm cũng thấy khổ. Tuy nhiên, người mải chạy theo mê vọng quá thì sẽ có thể bị những nỗi khổ mà lẽ ra không đáng bị khổ, thí dụ nghèo đói, thất nghiệp thì lo sợ ngày mai không có cơm ăn là hợp lý. Nhưng nếu không nghèo đói, mà lại vẫn quá lo sợ về một tương lai sẽ nghèo đói, rồi từ đó nẩy sinh ra những sự quá lố, keo kiệt, bon chen, bần tiện khiến cho tâm trí bị o ép, không được giải thoát ngay cả những khi có thể sống thanh thản thì thật là đáng tiếc.

Nhà Phật theo con đường trung đạo. Mỗi Phật tử đều có thể áp dụng giáo lý nhà Phật vào hai giai đoạn tu tập, giai đoạn thứ nhất là ứng dụng giáo lý vào đời sống tương đối để đem lại niềm an lạc và giải thoát cho mình và cho xã hội và giai đoạn thứ hai là giai đoạn tu tập để giác ngộ giải thoát triệt để, gọi là Toàn Giác.

Trong đời sống thường nhật thì ứng dụng hai quy tắc “Không làm những điều xấu ác” và ”Siêng làm những việc tốt lành”, thực hiện được những điều này, người Phật tử tin chắc sẽ được hưởng quả báo tốt lành. Nếu đã làm toàn những điều tốt lành mà vẫn gặp những điều xấu thì người Phật tử biết rằng họ đang phải trả những món nợ cũ, những ân oán trong quá khứ mà họ đã tạo.

Và một con đường thứ hai dành cho những người muốn hoàn toàn giác ngộ, giải thoát, thì bản thân người hành giả phải tự mình thanh tịnh hóa tâm, chấm dứt dòng suy nghĩ miên man che mờ Chân Tâm, để Trí Tuệ Bát Nhã, cũng còn gọi là Phật Tánh, hoặc Chân Tâm, hiển lộ.

Đối với nhà Phật thì “quá khứ qua rồi, tương lai chưa đến”, sự sống của chúng ta chính ở ngay giây phút hiện tại này. Nhà Phật đã ví sự sống của mỗi sinh vật tiếp giáp với cuộc đời cũng như cái bánh xe lăn trên mặt đất, nó chỉ tiếp cận ngay tại khúc cong ngắn ngủi của cái bánh xe đúng vào lúc lăn trên đất mà thôi.

Cũng như mỗi sinh vật đều chỉ “sống thật” ngay tại cái hơi đang hít vào và thở ra, hơi thở trước thì đã chấm dứt, hơi thở sau thì chưa xuất hiện — và có thể sẽ không bao giờ xuất hiện, nếu đương sự thở ra mà không hít vào nữa, thì cuộc đời đã chấm dứt rồi. Cho nên chỉ có giây phút hiện tại là quan trọng mà thôi. Do đó, đức Phật dạy rất nhiều pháp môn để cho đệ tử nhà Phật tu tập, ngõ hầu đạt được khả năng nhận biết được khi tâm ý thức của mình hoạt động miên man, lăng xăng, nhảy nhót từ chuyện này qua chuyện khác, từ quá khứ chạy qua tương lai, như con vượn chuyền cành, như con ngựa lồng phi nước đại. Nhận biết được để mà lập tức chấm dứt dòng thường lưu suy tưởng, đem tâm trở về hiện tại, đó là những pháp môn tu như Quán Niệm Hơi Thở, Tứ Niệm Xứ, Thiền Tông, Thiền Minh Sát Tuệ, Thiền Mật Tông, Trì Chú, Niệm Phật, … vân vân . . .

Trong bài kinh Nhất Dạ Hiền Giả, đức Phật dạy:

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền, 

Bậc an tịnh, trầm lặng.

Mải mê với quá khứ và tương lai, chúng ta quên mất hiện tại. Cũng như câu chuyện ẩn dụ về một người bị cọp đuổi, anh ta phóng mình chạy, không kịp coi trước coi sau, lọt ngay xuống một cái giếng khô bỏ hoang. May thay, anh quơ tay chụp vội được cái rễ cây cổ thụ thòng xuống thành giếng. Bám chặt rễ cây, anh nhìn lên miệng giếng, thất kinh hồn vía khi thấy hai con chuột trắng và đen đang gặm rễ cây. Trong lúc tuyệt vọng, anh nhìn thấy một chùm nho đong đưa trước mặt. Vừa đói vừa khát, chùm nho đối với anh bây giờ chính là nguồn tiếp nối sự sống, anh vươn cổ tới gặm một trái, ôi mới ngon ngọt mát mẻ làm sao!

Có nhiều lối giải thích câu chuyện và pháp môn Tổ Sư Thiền cũng dùng câu chuyện này làm một công án. Nhưng nếu giải thích theo tinh thần đề tài kỳ này: “Cuộc đời thì vô thường, đầy bất trắc, sự sống chỉ có mặt ngay trong giây phút hiện tại” thì rõ ràng đối với anh chàng này, nghĩ về quá khứ giầu sang hoặc tương lai huy hoàng đều không ích lợi gì nữa, chỉ có quả nho trong hiện tại là giúp cho anh sống còn mà thôi. Cọp rượt dụ cho những bươi chải trong cuộc đời, lọt xuống giếng dụ cho những hiểm nguy mà con người thường gặp, chuột trắng và đen dụ cho ngày và đêm cứ lẳng lặng gặm mòn dần đời sống của kiếp nhân sinh và cái rễ cây sẽ bị gặm đứt bất cứ lúc nào là dụ cho vô thường đến bất chợt, không ai có thể biết trước.

Cuộc đời thì vô thường, không có gì là bảo đảm chắc chắn cho tương lai, tai họa do thiên nhiên giáng xuống ít người biết trước, và ngay như có biết trước cũng ít người thoát khỏi bị ảnh hưởng.

Vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, trong số gần hai trăm ngàn nạn nhân sóng thần bên Á Châu, có biết bao nhiêu người ra đi không về, chết tức tủi trong buổi sáng hôm đó, để lại cho thân nhân niềm tiếc nuối khôn nguôi vì bản thân đã “mải mê suy nghĩ về quá khứ và tương lai”, không ngẩng lên nhìn người thân của mình, nở một nụ cười thân ái chia tay, dù là chia tay một lát hay là chia tay lần cuối cùng, vĩnh viễn.

Không riêng nhà Phật nói về vô thường, văn hào Pháp Alexandre Dumas cũng căn dặn: “Mỗi ngày nên nghĩ đến sự chết một lần”. Để làm gì? Để nhắc chúng ta về lẽ vô thường.

Trong đời sống tương đối, không có cái gì vĩnh cửu, tất cả đều trong vòng “sinh, trụ, dị, diệt”, có nghĩa là mỗi sự vật đều xuất hiện, có mặt một thời gian, biến đổi dần, rồi chấm dứt, hoặc là chết, hoặc là tan vỡ. Đôi khi, có những sự vật không kịp đi đủ chu kỳ, sự chết hoặc tan vỡ đến bất thình lình, quá mau, khiến cho không ai biết trước được thời điểm biến mất của nó.

Vậy mà chúng ta lãng quên đi, cứ tưởng rằng những người thân kia sẽ hiện hữu mãi mãi với chúng ta, cho nên chúng ta không tiếc những phút giây hiện tại, có thể là những giây phút cuối cùng trong cuộc đời mà họ và chúng ta có nhau. Chúng ta lơ là, không “sống thực sự ” với họ trong lúc còn có thể, để rồi đây nếu chẳng may vô thường ập đến, thì lúc đó chúng ta có tiếc nuối cũng đã quá muộn màng.

Vậy thì hôm 26 tháng 12 năm 2004 đó, trong khi cuộc đời của cả thế giới đang trôi chảy, một ngày như mọi ngày, thản nhiên bình lặng, người nào việc nấy, thì bỗng nhiên thiên tai giáng xuống, trong vòng giây lát, một cơn sóng lớn như trái núi bằng nước ầm ầm đánh ập vào một miền bờ biển Á Châu, đập tan cả một vùng nhà cửa mênh mông vốn là vùng nghỉ mát trù phú, giết chết trên hai trăm ngàn người.

Một bài báo kể lại:”Hai tuần lễ trước, phần lớn chúng ta không hề biết đến từ ngữ tsunami có nghĩa là gì, cứ tưởng nó cũng có nghĩa hiền lành như là sushi hoặc tempura. Nhưng vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, cả thế giới mới biết cái nghĩa thật sự kinh hoàng của nó, là nhà tan cửa nát, người và vật suốt một giải bờ biển châu Á chết trong vòng giây phút.

Từ một mẩu phim video tài tử được chiếu trên màn ảnh Internet, chúng ta thấy cảnh mọi người đứng trên bờ biển vui vẻ ngắm núi nước cuồn cuộn đánh vào bờ, chỉ có vài người nhận ra được sự nguy hiểm. Nhưng đã quá trễ, núi sóng trườn lên mình họ, phăng phăng cuốn đi tất cả, từ lâu đài dinh thự cho đến xe cộ, làm tan nát biết bao nhiêu gia đình, bao nhiêu cộng đồng, hình ảnh đau thương của những nạn nhân gây xúc động đến tận đáy lòng của mọi người trên thế giới. Tai nạn xảy ra chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, vừa bằng thời gian uống một chén trà.

Vào cái ngày định mạng đó,, Tilly Smith – một cháu bé gái 10 tuổi người Anh – đang đứng trên bờ biển Maikhao thuộc tỉnh Phuket, Thái Lan. Cả gia đình cháu đang vui vẻ thưởng thức cảnh sóng ngoài khơi cuồn cuồn nhồi và khởi sự bung ra. Những người lớn thấy lạ thì chăm chú nhìn một cách tò mò. Nhưng cháu Tilly thì sợ điếng đến tê dại cả người, hét lên thất thanh:

– Chúng ta phải chạy ra khỏi bờ biển ngay lập tức, mẹ ơi, con sợ rằng đây sẽ là tsunami!

Đám người lớn ngẩn ra tỏ vẻ không hiểu cho đến khi Tilly hét thêm một từ ngữ thần diệu ngắn gọn:

– Một cơn sóng lớn khủng khiếp!

Lời cảnh báo của em được truyền đi như lửa cháy rừng. Trong giây phút, cả bãi biển bỗng vắng ngắt. Nhờ thế, vùng Maikhao trở thành một trong số rất ít nơi thoát được cảnh người chết hoặc thương tích nặng nề.

Mẹ cô bé kể lại:

“Nghe con tôi la thất thanh, tôi chạy vắt giò lên cổ đến tối đa để thoát ra khỏi bãi biển, một mạch về khách sạn, phóng vội lên lầu vì nghĩ rằng nơi đó an toàn. Mấy phút sau, sóng biển đánh thốc vào ngay bãi biển đó và xóa tan tất cả mọi thứ trên đường sóng thần lướt qua. Thật là một quang cảnh kinh hoàng và tôi rất hãnh diện rằng con gái tôi đã biết để mà báo nguy cho mọi người”.

Cũng là tình cờ may mắn mà Tilly có dịp biết được đó là tsunami. Vì cháu vừa mới được học về động đất ngay trước khi đi du lịch, kiến thức còn nóng hổi trong đầu, em đã cứu được biết bao nhiêu người. Trên đây là một trong số hiếm hoi những người chạy thoát lưỡi hái của tử thần. Ngoài ra, những hoàn cảnh thương tâm làm tê điếng lòng người thì đầy dẫy, xuất hiện ngay trong buổi sáng ngày hôm sau, 27 tháng 12 năm 2004, khi ánh mặt trời ló dạng thì cũng là lúc sự thật kinh hoàng phơi bày trước mắt.

Đó đây, những người mẹ thất thần đi tìm con, lật lên từng cái xác, từng cái xác mà khi dòng nước rút lui đã bỏ lại trên bãi cát. Tiếng những người mẹ khóc gào thảm thiết, đó đây còn văng vẳng:

– Con ơi, con ơi, con đâu rồi, con ơi, …

Và những gương mặt chai đá tuyệt vọng của những người cha nhẫn nại mò mẫm trong những đống xác đã trương phình, mùi hôi xông lên nồng nặc để tìm đứa con thân yêu bé nhỏ từ nay xa cách ngàn đời. Không ai dám nhìn vào đôi mắt bi thương tuyệt vọng của những người mẹ, những người cha tội nghiệp.

Trên màn ảnh Internet, hình cháu bé Sophia Michl mặt mũi xây xát, trầy trụa với cái nhìn không hồn, ở dưới là lời ghi chú:

– Cháu bé trong hình không còn nhớ bất cứ điều gì, chỉ nói một câu duy nhất “Cháu muốn cha mẹ”.

Sau này, nhờ tấm hình, bạn của cha cháu tìm tới lãnh cháu về, nhưng cha mẹ cháu đã lìa bỏ cháu vĩnh viễn, không bao giờ còn trở lại như niềm mơ ước của cháu.

Cũng đến từ nước Đức xa xôi như cháu Sophia Michl, cháu bé Tom 4 tuổi được đưa trở về Frankfurt để gặp lại ông bà. Cha cháu đã mất tích nhưng mẹ cháu còn sống với đầy vết thương cả thể xác và tâm hồn. Ít nhất, cháu Tom còn đỡ khổ hơn Sophia, còn niềm hy vọng có ngày gặp lại mẹ cháu.

Trong một ngôi chùa ở Batapola, Tích Lan, cháu Sujeewa Samarasingha, một cháu bé có cha mẹ, gia đình khá giả, có nhà cao cửa rộng, có quần áo đẹp đẽ, bỗng nhiên một buổi sớm mai, cháu mất tất cả, trở thành một trẻ mồ côi, được các nhà sư Phật giáo đem về sống tạm trong chùa, được nuôi bằng lòng hảo tâm của các thí chủ bố thí vật thực. Cháu kể lại:

– Tất cả gia đình cháu đều biến mất hết, nhà cửa bị phá xập, quần áo bị cuốn đi. Chúng cháu buồn quá …

Cháu Sanga, 12 tuổi, tiếp lời:

– Khi nước đánh vào, cháu sợ quá, chỉ còn biết chạy một mạch. Tất cả những gì trong nhà cháu đều đã bị cuốn đi hết sạch …

Bốn chục cháu chen chúc trong một phòng, những đứa bé này tuy bất hạnh nhưng cũng còn chưa đến nỗi xuống tận đáy địa ngục. Rất nhiều cháu bé khác đã rơi vào những tình trạng khốn khổ hơn. Trong tai nạn sóng thần này, trẻ em thật là đáng thương. Những cháu nhỏ thì vì chạy chậm nên bị nước cuốn, trông những cái xác nhỏ xíu trương phềnh nằm còng queo trên bãi biển để gia đình nhận diện, nếu Trời có mắt thì cũng phải nhỏ xuống giọt lệ thương cảm.

Về trường hợp những cháu sống sót nhưng đã mất hết cha me, nếu may mắn thì gặp được các nhà hảo tâm hoặc nhân viên những cơ sở từ thiện lượm về cho tạm trú để chờ ổn định. Còn một số không may, bị những kẻ bất lương nhặt được, đem về các nơi xa xôi nuôi để làm nô lệ.

Trong vùng đất thiên tai giáng xuống tróc tận gốc như vậy, khó có thể biết cháu nào đã chết trong biển nước và cháu nào đã bị cuốn vào những vũng lầy tội ác của xã hội. Vì tuổi còn nhỏ, các cháu sẽ không thể làm gì để tự cứu, rồi một mai thời gian qua đi, ký ức mơ hồ của các cháu sẽ xóa sạch nguồn gốc vốn hiền lành lương thiện, mà chỉ còn biết cái xã hội đen, nơi các cháu lớn lên. Cha mẹ các cháu thì đã qua đời trong tai nạn, không còn cơ hội để cứu những đứa con thân yêu ra khỏi chốn bùn lầy.Nhà Phật có lời khuyên như sau:

Ngày hôm nay đã qua đi
Mạng sống đã thu ngắn lại
Như cá trong chậu thủy tinh
Dưới đáy có một lỗ nhỏ
Mỗi ngày rơi một giọt nước
Sống tối đa một trăm năm
Nhưng vô thường bỗng đến thăm
Cái chậu vỡ thành từng mảnh
Con cá giẫy giụa dưới đất
Rồi mắt nhắm lại, im lìm.
Đại chúng,
Hãy nhớ đời người lâu nhất
Cũng chỉ một trăm năm thôi
Nhưng nếu vô thường đến gấp
Thì cuộc đời chấm dứt ngay
Cơ duyên gặp được Phật pháp
Hãy nên tu tập đêm ngày
Như lửa cháy đầu, tinh tấn
Một đời giải thoát mới hay.

Nguồn: Thư viện Hoa Sen

Vấn Đáp về Ăn Chay

HỎI

Tôi thấy một số món ăn chay trong các tiệm ăn và đôi khi cả trong một vài chùa, có hình thức các con vật và tên gọi giống y như các món mặn, thí dụ như: “cá chiên, cá hấp, thịt quay bánh hỏi, tôm xào chua ngọt.. v..v..”. Nếu tâm còn thèm ăn các món mặn thì ăn quách đồ thật còn hơn là giả dối như vậy. Đạo Phật nói trực tâm là đạo tràng cơ mà?
ĐÁP:

Đây là một câu hỏi có nội dung phức tạp, có thể chia ra làm bốn phần:

(1) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các chùa

(2) Món ăn chay giả thịt cá bán tại các tiệm

(3) Ăn chay vì lý do sức khỏe,
và 
(4) Người ăn chay chỉ vì có lòng thương súc sinh, không liên quan đến tu tâm theo Phật giáo.

Món ăn giả thịt cá tại các chùa:

Đức Phật dạy rằng “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”, “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, chữ chúng sinh ở đây là chỉ tất cả mọi loài động vật có cảm giác, chứ không chỉ riêng loài người.

Cửa chùa là nơi truyền bá đạo Phật, tu sĩ ở chùa là Trưởng tử Như Lai, đem chánh pháp dạy chư Phật tử. Một trong những lời dạy quan trọng, cốt tủy của Đức Phật là phải dùng tâm bình đẳng để đối xử với mọi loài, cả người lẫn vật. Vậy thì chúng ta không nên tạo thói quen xấu là thản nhiên nhìn hình ảnh con cá con tôm nằm cong queo giữa đĩa nước xốt, hoặc cầm muỗng, đũa xắn cắt con cua, con gà, dù chỉ là gà giả.

Ngoài ra chư vị nào đã thọ Bồ Tát Giới thì đừng quên là, khác với giới Thanh Văn, chỉ ràng buộc trong một kiếp người và chỉ phạm khi có hành động, giới Bồ Tát là Tâm Giới, chỉ khởi tâm phạm, chưa hành động, là phạm giới rồi. Vậy thì chư vị Cư Sĩ Bồ Tát Giới chỉ cần nghĩ là :

“Ăn con tôm rang muối này ngon quá”,

… dù là tôm giả, tâm của quý vị khởi niệm muốn ăn, là phạm giới rồi.

Món ăn giả thịt cá tại các nhà hàng.

Về các nhà hàng dùng tên giả để gọi các món ăn chay thì chúng ta nên cảm thông rằng họ làm thương mại, họ cần có những phương pháp lôi cuốn khách hàng, là những người đã quen ăn thịt cá nay chuyển sang ăn chay. Nếu món nào cũng chỉ dùng tên vật liệu để gọi thì chỉ còn là: nấm xào rau, đậu om, rau luộc, rau kho..v..v.., rất ít món, khó lôi cuốn khách hàng.

Dầu sao, thực khách khi ăn một món giả, cứ nghĩ đến một con thật đã thoát chết thì lòng từ bi cũng đang tăng trưởng rồi đó.

Ăn chay vì lý do sức khỏe:

Nhóm người này tránh ăn thịt động vật vì thấy rằng thịt động vật mang đến nhiều chất độc và bệnh tật. Đối với họ, lý do ăn chay hoàn toàn vị kỷ. Nếu một mai khoa học tìm ra rằng ăn vẩy rồng, gân cọp sẽ khỏe mạnh sống lâu, thì họ sẽ lại hỳ hục đi săn rồng, săn cọp. Tuy nhiên, dù mục tiêu ăn chay của họ vị kỷ, không vì loài vật, nhưng phó sản của nó lại vô tình cứu loài vật bớt chết (có nghĩa là bớt bị sản xuất ra để rồi phải sống tù tội và chết đau đớn), và cũng giúp cho dòng nghiệp lực sinh tử tử sinh của họ bớt nợ máu.

Cho nên, đối với nhóm người này, món ăn giả nếu có làm cho họ cảm thấy hấp dẫn, thích ăn, bớt thèm thịt, thì vẫn có ích lợi cho cả phiá người và vật.

Ăn chay vì lòng thương loài vật:

Nhóm này thuộc đủ mọi thành phần tôn giáo và không tôn giáo. Họ tránh ăn thịt chỉ vì lòng thương xót loài vật, không nỡ đóng góp thêm vào nỗi thống khổ của cuộc sống đầy đau thương, bị hành hạ, trà đạp, đánh đập, sống chen chúc, bị ép cho đẻ nhiều rồi chia rẽ mẹ con, trước khi chết còn bị sống những ngày kinh hoàng trên những chiếc xe chuyên chở khổng lồ, đói khát, dồn ép trong một trạng thái thần kinh rất là khủng khiếp, rồi bị lùa vào hành lang dẫn đến lò sát sinh, để nghe thấy những tiếng thét thất thanh trong giây phút dẫy chết. Do được thấy tận mắt, hay coi phim, hoặc xem sách báo, tâm những người này đã chuyển, họ cảm thấy ăn thịt là kéo dài những nỗi thống khổ cho loài vật, cũng là những sinh vật có đầy đủ tình cảm, xúc động v..v.. như con người.

Nhóm người này ăn chay dễ dàng và còn cổ động mọi người ăn chay để toả rộng lòng nhân từ ra khắp nơi. Điển hình nhóm này là những hội viên hội PETA (People For The Ethical Treatment of Animals). Đối với họ khi nhìn tôm thịt cá giả trên bàn, thì họ cũng cảm thông với những người đang từ từ chuyển hướng sang ăn chay, và mừng rằng một con tôm, con cá, con gà giả trên bàn ăn là đã cứu một con tôm, con cá, con gà thật khỏi chết.

Cho nên, nhóm người này rất ủng hộ những tiệm ăn chay và hoan nghênh những con tôm cá giả, gà giả trên bàn ăn. Họ quan niệm rằng:

“Nếu như tật xấu ăn thịt cá đã bám rễ sâu xa trong óc con người, thì những món chay giả mặn đã cứu những con vật thật thóat chết”.

Nguồn: Thư viện Hoa Sen

Mời xem thêm:

http://www.vietfreefun.com/forum/showthread.php?185667-T%C3%ACnh-th%C6%B0%C6%A1ng

.

Thân cũ không tái sanh – Thân mất, việc làm còn

Thân cũ không tái sanh

Vua hỏi:

— Bạch Ðại đức, con người sau khi chết có trở lại mang thân cũ mà tái sanh không?

— Tâu Ðại vương, sau khi chết rồi, con người bỏ thân cũ mà mang thân mới.

— Xin cho ví dụ.

— Vi như người ta châm đuốc. Hết đuốc này, lửa lan qua cháy sáng đuốc kia. Con người ta cũng thế. Cái thân cũ không đem đi theo. Phải thọ lãnh một thân mới.

Na Tiên trở ngược lại hỏi vua:

— Ðại vương hồi nhỏ có theo thầy học chữ không?

— Thưa có. Và ngày nay, trẫm vẫn còn nhớ.

— Những kinh sách của Ðại vương học, sau khi phụ đạo dạy xong và Ðại vương đã thông hiểu, phụ đạo còn nhớ gì không, hay Ðại vương đã tóm thâu hết sạch rồi?

— Thưa không, phụ đạo vẫn nhớ và thông hiểu như trước khi chưa dạy trẫm.

— Con người ta cũng thế, lìa bỏ thân cũ thì liền nhận thân mới.

Thân mt, vic làm còn

Vua hỏi:

— Bạch Ðại đức, có cái thần hồn để nhớ không?

— Tâu Ðại vương, không.

— Thế thì trong con người cái gì ghi lại các việc làm đã qua?

Na Tiên trở hỏi ngược lại nhà vua rằng:

— Ví như có người hái trộm xoài của kẻ khác thì có chịu tội không?

— Dĩ nhiên là có tội.

— Khi mới trồng, cây xoài mầm đâu đã có trái? Ðây chỉ là hái trái, đâu có trộm cây xoài mầm mà cũng chịu tội?

— Nhưng nếu không trồng cây xoài mầm thì lấy đâu ra xoài trái để người kia hái trộm?

— Con người cũng giống như thế. Với cái thân hiện tại, người ta làm các việc lành dữ. Các việc lành dữ này không có tướng trạng gì hết, nhưng trong khoảng “minh minh chi trung” ấy, đương tựu thành một thân mới, để đời sau tái sanh mà thành thọ quả báo.

— Theo trẫm nghĩ, không phải con người đời sau chịu quả báo, mà nó dựa vào thân mới ấy để tiếp tục làm điều thiện điều ác khác.

— Thế thì những việc lành dữ của nó trước kia đi đâu?

— Như vậy, xoài mầm của Ðại vương đâu có kết trái? Làm sao kết tội người hái trộm xoài trái được?

— Vậy theo Ðại đức, những việc lành dữ trước kia đi đâu?

— Chúng không đi đâu hết. Chúng theo sát gót kẻ đã tạo tác ra chúng, như bóng theo hình. Người chết chỉ mất cái thân, không bao giờ đánh rơi những việc đã làm. Ví như đêm tối đốt đèn viết sách, khi sách viết xong và đèn đã tắt, chữ vẫn tiếp tục tồn tại trên giấy. Vì vậy cho nên, những việc thiện ác đã làm trong đời này, đời sau đương nhiên phải thành tựu kết quả, và kết quả ấy cũng chính tác giả phải tự thọ lãnh lấy.

Trích: Kinh Na Tiên Tỳ Kheo – Cao Hữu Ðính dịch

Philip Kapleau (1912-2004) – một thiền sư người Mỹ

Philip Kapleau (1912-2004)
một thiền sư người Mỹ
Thích Nguyên Tạng

Ông Philip Kapleau, được xem là một trong những Thiền sư người Mỹ đầu tiên, một Thiền sư người phương Tây nổi tiếng ở khắp nước Mỹ và các nước ở châu Âu. Ông sinh năm 1912 trong một gia đình theo đạo Tin Lành ; ông học ngành luật và sau khi ra trường làm thư ký nhiều năm ở Tòa án Liên bang Mỹ. Trong thế chiến thứ II (1939-1945), ông được chỉ định làm báo cáo viên tại hai phiên tòa xử tội ác chiến tranh Tòa án Quân sự Quốc tế tại Nuremberg-Đức và tại Tokyo-Nhật Bản. Đây cũng là nhân duyên đẩy đưa ông đến với Phật giáo (PG). 

 

 

Thiền Sư Philip Kapleau và các đệ tử

Tháng 3 năm 1947, ông cùng với người bạn trẻ Richarch Demartino đến làm việc tại Tòa án Quân sự Quốc tế tại Tokyo. Khác với phiên xử những tội phạm khủng bố của phe trục phát xít ở Nuremberg, phiên xử ở Tokyo dễ chịu hơn, ít căng thẳng hơn. Vì người Nhật nhìn chung biết chấp nhận hậu quả chiến tranh với sự điềm tĩnh và tự kiềm chế mình. Qua tìm hiểu, Kapleau biết rằng người Nhật chấp nhận quả khổ này là dựa trên “Luật nghiệp quả báo ứng” (The law of karmic retribution). Khái niệm về luật nhân quả này được hoạt động trên bình diện đạo đức kích thích sự chú ý của Kapleau, vì nó ngược lại hoàn toàn với sự tự bào chữa rất thường nghe ở Đức. Với sự tò mò về vấn đề nghiệp lực, cuối cùng Kapleau được người ta đưa đến gặp Đại sư Suzuki. Tại Kamakura, ông gặp và tiếp xúc với Suzuki, nghe giảng giải về cốt lõi của nghiệp quả và giáo lý thiền Đại thừa. Kapleau rất vui mừng và bắt đầu quan tâm đến PG. 

Tiếp đó, ông tới thăm Trung Hoa rồi trở về Mỹ, ông tiếp tục đi làm ở thị trấn Connecticut, nhưng cuộc sống của ông không thể trở lại ổn định được sau hai phiên xử tội ác chiến tranh, có hàng trăm ấn tượng và suy nghĩ chưa giải quyết được, cứ lơ lửng trong đầu ông, giống như có nhiều đồ giặt cần phơi khô và xếp lại. Cuộc sống của ông trống rỗng, không còn ý nghĩa nhưng vẫn chưa có gì thay thế được, ngoài việc tìm đến New York vào những ngày cuối tuần để xem xét những tôn giáo lớn ở châu Á. Không có thầy dạy thiền, ông tham gia vào một lớp giáo lý đạo Bahai và những cuộc họp của Hội Vệ Đà, nhưng rốt cuộc không giúp gì được cho ông. Sự quan tâm đến đời sống tâm linh đã héo mòn. Năm 1950, tiến sĩ Suzuki đến Mỹ, nhóm ngòi nổ mà sau này làm nổ ra “sự bùng nổ thiền” (Zen boom). Philip Kapleau liền ghi danh học triết lý Phật giáo thiền cùng với 20 họa sĩ, nhà sáng tác, nhà thơ, bác sĩ tâm lý, các giáo sư triết học tại Đại học Columbia. Suzuki nhắc nhở các học trò :

“Thiền không phải là triết học mà là một lối sống. Nếu các vị muốn học thiền nên đến thẳng Nhật Bản, các vị phải sống với nó và cuộc đời của các vị sẽ thay đổi”.

Năm 1953, ở tuổi 44, Kapleau bỏ việc làm và đến xin xuất gia tu học. Trước tiên ông đã gặp chướng ngại, hai Thiền sư Nhật Bản không nhận ông làm đệ tử, vì ông không biết nói tiếng Nhật. Tuy nhiên, với lòng nhiệt thành cầu đạo, cuối cùng Lão sư Soen đã tiếp nhận Kapleau ở tu tại chùa Phát Tâm (Hosshinji). Ông tu ở đây được 3 năm, sức khỏe của ông ngày càng một tệ đi vì bầu không khí căng thẳng, giới luật khắc nghiệt và chế độ ăn uống thiếu thốn. Theo lời giới thiệu của Lão sư Soen, Kapleau đến cầu pháp với Thiền sư Bạch Vân (Yasutani), người thừa tự pháp của Lão sư Đại Vân (Harada), lúc bấy giờ Thiền sư Bạch Vân không có tu viện, điều kiện tu học rất khó khăn. Thiền sư Bạch Vân khuyên Kapleau:

Sứ mệnh của con là đem thiền sang truyền bá ở phương Tây, nên con phải kham nhẫn đối với mọi thứ ở đây”

Nhờ sự nỗ lực thiền tập mà trong khóa tu thứ 20 (mùa Hè năm 1958) với TS Bạch Vân, Kapleau đã đạt ngộ, được Thiền sư Bạch Vân ấn chứng và ban cho danh hiệu “Roshi” – Lão sư (một danh hiệu khó đạt được, chỉ được ban cho những ai đã đạt ngộ chân lý).

 


Thiền Sư Philip Kapleau

và Bổn Sư của mình Lão sư Soen

Với khả năng ghi tốc ký của người báo cáo viên cộng với khả năng thành thạo Nhật ngữ của mình, thiền nhân Philip Kapleau được Lão sư Bạch Vân cho phép ghi lại hầu hết các bài giảng về thiền, đặc biệt là những bài giảng nhập môn tu thiền. Cuối cùng Kapleau đã biên soạn thành cuốn sách với tựa đề là “Ba Trụ Thiền” (Three Pillars of Zen), in tại Nhật Bản vào năm 1965. Điều đáng chú ý, đây là quyển sách tiếng Anh viết chi tiết về cách thức thực tập thiền. Trong phần lời nói đầu, Kapleau nói rõ mục tiêu của ông:

“Người phương Tây thích tu thiền, nhưng gặp một chướng ngại lớn là không có tài liệu chỉ dẫn. Sự thiếu thốn này không những hạn chế trong tiếng Anh mà còn cả trong những ngôn ngữ châu Âu khác nữa (…). Do đó, họ cần có một bản đồ mà tâm trí của họ có thể tin tưởng được, đây là một phác họa lộ trình tâm linh mà họ có thể tin được trước khi khởi hành”.

Một trăm năm mươi ngàn (150.000) bản tiếng Anh (quyển Ba Trụ Thiền) được phát hành đi khắp thế giới, đến nay nó được dịch ra nhiều thứ tiếng như Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ba Lan, Việt Nam (do Đỗ Đình Hồng dịch)… Rõ ràng đây là loại sách kinh điển của thiền và nó sẽ tiếp tục được sử dụng như cuốn sách hướng dẫn cho những ai muốn tu thiền trong tương lai, năm 1980 tại Mỹ lại tái bản cuốn sách này. 

Sau 13 năm tu học tại Nhật, năm 1965, Kapleau trở về nước và bắt đầu sứ mệnh truyền giáo. Khởi đầu Ngài được thỉnh về Rochester, một vùng thuộc miền Tây tiểu bang New York, nơi đã có nhiều tôn giáo phát sinh trong quá khứ.

Năm 1966, Ngài cho xây dựng Trung tâm thiền Rochester và liên tục mở những khóa tu nhiếp tâm cho thiền sinh Mỹ đến dự. Bấy giờ cuốn “Ba Trụ Thiền” đã gây được tiếng vang lớn. Từ giữa thập niên sáu mươi đến giữa thập niên bảy mươi, Lão sư Kapleau đi khắp nước Mỹ để thuyết giảng cho mọi tầng lớp trong xã hội Mỹ. Ngài nói chuyện ở trường cao đẳng, viện đại học, trung tâm phát triển và các hội nghị chuyên đề, Ngài xuất hiện trước những tổ chức tôn giáo và những nhóm tham vấn. Ngài cũng được mời đến Canada, Mexico, Costa Rica, Đức, Pháp và Ba Lan. Sự hiện diện của Ngài, phong cách bình dị, kinh nghiệm và đầy khôi hài, đã khẳng định thêm những giá trị mà Ngài đã hứa hẹn trong tác phẩm “Ba Trụ Thiền”. Ngài là người phương Tây hoàn toàn tự nhiên quen thuộc với thiền. Hơn nữa, qua phong thái, hành động, cử chỉ cho thấy Ngài đã tiến sâu vào lãnh vực của thiền, Ngài đã vượt qua và giải quyết rất nhiều điều từng làm cản trở và làm thất vọng ở nhiều người đang lắng nghe Ngài. Kết quả trước tiên là dòng chảy, rồi đến một dòng suối rồi một biển người đổ về Trung tâm thiền Rochester để được Ngài hướng dẫn tu học. 

Năm 1968, cơn hỏa hoạn tàn khốc đã thiêu rụi tất cả chỉ còn lại cái sườn của Trung tâm. Lão sư Kapleau cùng với đệ tử tái tạo lại trung tâm tu học và trung tâm đã được mở rộng kể từ đó và nhiều sự cải thiện đã được thực hiện. Dù bị hỏa hoạn, những đề án xây dựng, những thay đổi liên tục, thời khóa tu học, tọa thiền, nhiếp tâm, hội thảo, lễ lạt… vẫn được thực hiện. Những buổi lễ truyền thống đã được chọn và được điều chỉnh lại để đáp ứng những đòi hỏi phù hợp với thời đại và nền văn hóa Mỹ. Tuy vậy, Lão sư Kapleau vẫn không ngừng giữ gìn tinh thần thiền được các tiền bối Đại Vân và Bạch Vân để lại.

 


Lão sư Philip Kapleau (hình chụp năm 1975)

Hai mươi năm sau từ ngày ấn hành quyển Ba Trụ Thiền, năm 1980, lão sư Kapleau đã cho in quyển Thiền, ánh bình minh ở phương Tây (Zen, dawn in the West, cuốn này đã có bản Việt ngữ). Đây cũng là một quyển sách thiền có giá trị, nó chuyên chở một nội dung cũ trong một hình thức mới, nó phản ánh sự tác động của thiền ở những người Bắc, Nam Mỹ và châu Âu, những phản ứng thân thiện và khác nhau trong chính bối cảnh văn hóa Tây phương. Trong phong cách thiền, nó trả lời những câu hỏi mà họ háo hức đi tìm và những hoài nghi thẳng thừng của họ. Cũng như quyển Ba Trụ Thiền, quyển sách này cũng trình bày những cuộc đối thoại giữa thầy và trò, những lá thư mang đến xoáy sâu vào những e dè của những người mới tu thiền. Để giúp đỡ các thiền sinh Tây phương, lão sư Kapleau đã dịch những bài kệ, kinh thiền chính yếu ra tiếng Anh để cho họ thọ trì hàng ngày. 

Đặc biệt trong phần cuối cuốn sách, tác giả đã đề cập đến vấn đề đạo đức trong xã hội Mỹ. Ngài viết :

“Người ta nói rằng thiền ở trên đạo lý nhưng đạo lý không nằm dưới thiền. Câu phát biểu mâu thuẫn này cùng với sự tự do thoát khỏi sự đa cảm và những thuyết giảng đạo đức đã nảy sinh khái niệm sai lầm là thiền chống lại đạo lý và làm ngơ trách nhiệm xã hội. Thật ra, độc giả sẽ khám phá thì vấn đề sẽ hoàn toàn ngược lại, thiền nuôi dưỡng hành vi đạo đức và có trách nhiệm với xã hội bằng cách chế ngự ngọn lửa tham, sân si đang đốt cháy con người”.
 

Mặc dù được xem là người có tư tưởng tự do, phóng khoáng, nhưng Lão sư Kapleau rất khắt khe đối với những ai bước vào Trung tâm Thiền của Ngài. Những đòi hỏi của Ngài đối với người đệ tử cũng lớn như những đòi hỏi được thực hiện ở chùa Phát Tâm khi xưa ở Nhật Bản. Ngài không tha thứ cho sự buông thả và tự ti, Ngài cũng không chấp nhận các lời xin lỗi hoặc lời cầu xin đặc biệt, Ngài chỉ mong đợi sự thành tâm và tinh tấn ở mọi đệ tử. Ngài từng nhắc nhở học trò của mình rằng: 

Nếu trò không bằng thầy hoặc hơn thầy, thì đều xem là thất bại“. 

Lão sư Philip Kapleau rõ ràng là một người Tây phương vừa đạt ngộ, vừa là một Pháp sư, một Thiền sư nổi tiếng tại Mỹ, người biết được những nghi ngờ, những mối quan tâm và những hy vọng của những người thiên về kỹ thuật thời hiện đại. Thật hiếm thấy một con người có được sự kết hợp các phẩm chất độc đáo như vậy.

 


Lão sư Philip Kapleau (hình chụp năm 2002)

 

Vào đầu tháng 5 năm 2004, Lão sư Philip Kapleau cảm thấy pháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử tận tình chăm sóc chữa trị, nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài đã không qua khỏi.

Ngài đã an tường xả báo thân lúc chiều ngày Thứ Năm, ngày 6 tháng Năm 2004 (nhằm ngày 18 tháng 3 năm Giáp Thân) trụ thế 92 tuổi đời, 49 tuổi đạo.

Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Lão sư Philip Kapleau đã nỗ lực không ngừng trong công việc xiển dương đạo pháp. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa cho Tăng ni và Phật tử noi theo.

* Theo các tài liệu: 
– Zen : Dawn in the West, Anchor Press, USA, 1980
– How the Swans came to the Lake, a narrative history of Buddhidm in America. USA, 1992
– http://www.rzc.org/html/gallery/photo.shtml (5-2004)

Thích Nguyên Tạng
http://www.tuvienquangduc.com.au

***

Founder of local Zen Center dies at 91

Renowned teacher Philip Kapleau wrote ‘Three Pillars.’
By Corydon Ireland
Staff writer

 

(May 7, 2004) — Philip Kapleau, founder of the Rochester Zen Center, who in the 1950s traded an American commuter train for a monastery in Japan, died Thursday afternoon, surrounded by students, friends and family at the center on Arnold Park.

He was 91 and had suffered from Parkinson’s disease for many years.Born in 1912, and a native of a working-class section of New Haven, Conn., he has long been regarded as one of the foremost teachers of Zen Buddhism in the Western world.

After World War II, Mr. Kapleau worked as a court reporter at the military tribunals in Germany and Japan, a racking experience that later drove him onto a spiritual path.

His 1965 book, The Three Pillars of Zen, introduced many Americans to Zen Buddhism, a traditional Japanese religious practice of disciplined meditation and self-examination. It is still considered a seminal text.

He wrote many other books.

Mr. Kapleau is survived by his wife, deLancey, and a daughter, Sudarshana.

”He will be missed by thousands,” said Margaret Lee Braun, a Brighton writer and friend who was with Mr. Kapleau when he died lying in a recliner in the center’s sunlit garden. “He gave us so many gifts — genuine teaching about life and death, a genuine spiritual practice.”

A student of Mr. Kapleau’s for more than 30 years, Braun called him “a profound person of his era.”

In a 1966 interview, Mr. Kapleau said that after the war, “a sense of the futility and the horror of life was very strong with me.”

Propelled by the defensive testimony of the Germans — and the testimony of Japanese defendants who acknowledged guilt and its consequences — Mr. Kapleau in 1952 started a 13-year study of Zen Buddhism in Japan.

He returned to the United States in 1965, an ordained Zen priest, and founded the Rochester Zen Center a year later in a rented house at 10 Buckingham St.

For years since then, it has been in linked converted mansions at 5 and 7 Arnold Park. It remains one of the premier U.S. centers of Zen Buddhism.

Mr. Kapleau’s death “is the culmination of an amazing life,” said John Pulleyn, who administers the center. “What he started in Rochester has grown worldwide.”

Seven successive nights of services for members and friends started Thursday at the center. They will be followed by weekly services for seven weeks.

A public funeral service, said Pulleyn, will be held “sometime in the future.”

CIRELAND@DemocratandChronicle.com

http://www.democratandchronicle.com/news/0507LQ45VBK_news.shtml

Cái gì đi tái sanh? – Lý Vô Ngã

“Không là một, cũng không phải khác.”

Thanh Tịnh Đạo

Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận có một linh hồn vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn mà con người đã thọ lãnh một cách bí ẩn, từ một nguồn gốc cũng không kém bí ẩn.

Một linh hồn mà trường cửu tất nhiên phải bất biến, trước cũng như sau. Nếu linh hồn mà người ta giả định là phần tinh túy của con người là trường tồn vĩnh cửu thì linh hồn không thể tái sanh hay hoại diệt, mà ta không thể giải thích vì sao “từ lúc sơ khởi, linh hồn nầy lại khác biệt rất xa với linh hồn kia.”

Để chứng minh rằng có những lạc thú vô cùng tận trên một thiên đàng vĩnh cửu và cảnh khổ đau vô cùng tận dưới một địa ngục trường tồn, tức nhiên phải chủ trương có một linh hồn trường cửu.

Bertrand Russell viết :

“Ta phải nói rằng sự phân biệt cũ kỹ giữa linh hồn và thể xác đã tiêu tan như mây khói, bởi vì vật chất đã mất tính chất cứng rắn của thể đặc mà tâm cũng mất tính chất tinh thần của nó. Tâm lý học vừa bắt đầu trở thành một ngành khoa học. Trong tình trạng hiện hữu của tâm lý học, sự tin tưởng nơi một cái gì trường tồn vĩnh cửu không có cái nào đòi hỏi khoa học tán trợ” [1].

Theo nhà học giả uyên bác, tác giả quyển “The Riddle of the Universe”:

“Biện chứng Thần Linh Học chủ trương có một đấng Tạo Hóa thổi vào con người một linh hồn bất diệt (thường được xem là một phần của Thần Linh). Đó là một câu truyện thần thoại. Biện chứng Vũ Trụ Luận cho rằng “trật tự luân lý của thế gian” đòi hỏi phải có một linh hồn trường tồn bất diệt. Đó là giáo điều vô căn cứ.

Biện chứng Chung Quả Luận chủ trương rằng do sự tiến triển không ngừng của con người để cải thiện vận mạng mình, những khuyết điểm của linh hồn phàm tục phải được cải tiến mãi mãi trong đời sống và sau kiếp sống. Đó là một lối hiểu sai lầm của thuyết sinh vật đồng nhân (anthropomorphism) cho rằng tất cả những sinh vật đều có hành động và tư tưởng như người.

Theo biện chứng Đạo Đức Luận, những khuyết điểm và những tham vọng chưa được thỏa mãn trong đời sống phải được bổ khuyết và “đền bù một cách công bình và vĩnh viễn” sau kiếp sống. Đó chỉ là một điều mong ước cuồng nhiệt.

Biện chứng Nhân Chủng Luận cho rằng sự tin tưởng nơi tánh cách bất diệt của linh hồn cũng như sự tin tưởng nơi một đấng Tạo Hóa là chân lý cố hữu trong toàn thế nhân loại. Đó hiển nhiên là một sai lầm.

Biện chứng Bản Thể Luận chủ trương rằng linh hồn là một thực thể đơn giản, vô hình, và bất khả phân, tất không thể bị liên quan đến sự vong hoại do cái chết gây ra. Điều nầy căn cứ trên quan niệm sai lạc về hiện tượng tâm linh. Đó là ảo mộng của Duy thần luận.

Tất cả những biện chứng kể trên cũng như tất cả những giả thuyết tương tợ về bản ngã đã lâm vào tình trạng nguy ngập trong vòng mười năm nay và đã bị khoa học chỉ trích và bác bỏ hoàn toàn.” [2]

— Nếu không có chi dưới hình thức linh hồn, chuyển từ kiếp sống nầy sang kiếp sống khác thì cái gì được tái sanh?

Hỏi như vậy đương nhiên là chấp nhận có một cái gì tái sanh.

Cách đây vài thế kỷ có lập luận “Cogito, ergo sum”, “tôi tư tưởng, tức là có tôi”. Đúng như vậy. Tuy nhiên, trước tiên phải chứng minh rằng có một cái “tôi”, đang tư tưởng.

Chúng ta nói rằng mặt trời mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây, mặc dầu ta biết rằng thật sự không phải mặt trời mọc lên và lặn xuống mà chính là quả địa cầu quay. Chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng ta không thể gõ hai lần đúng y vào một chỗ, mặc dầu bề ngoài là như vậy. Tất cả đều biến đổi rất nhanh chóng. Không thể có hai khoảnh khắc giống hệt nhau.

Người Phật tử đồng ý với Bertrand Russell khi ông nói:

“Hiển nhiên có vài lý do để chủ trương rằng cái “Tôi” ngày hôm nay và cái “Tôi” ngày hôm qua là một; và để lấy một thí dụ hiển nhiên hơn nữa, nếu cùng một lúc, tôi thấy một người và nghe người ấy nói ắt, có cảm giác rằng cái “Tôi” đang nghe và cái “Tôi” thấy là một.” [3]

Cho đến những ngày gần đây các khoa học gia còn tìm nơi tính cách bất khả phân tán và bất khả diệt của nguyên tử.

“Với đầy đủ lý lẽ, các nhà vật lý học đã phân tán hạt nguyên tử ấy ra từng loạt những thành phần nhỏ. Cũng vì những lý do không kém chánh đáng, các nhà tâm lý khám phá rằng tâm không phải là một thực thể đồng nhất với cái gì liên tục trường tồn mà là một loạt những yếu tố kết hợp với nhau trong những liên quan mật thiết nào. Do đó, vấn đề trường tồn bất diệt trở thành câu hỏi rằng sau khi thể xác kia chết thì những yếu tố của tâm và những yếu tố của thân có còn tiếp tục liên quan mật thiết với nhau không?” [4]

Cũng như C. E. M. Joad viết trong quyển “The Meaning of Life”:

“Vật chất đã tan rã dưới chính mắt chúng ta. Nó không còn ở thể đặc, không còn bền vững trường tồn, không còn bị những định luật cưỡng chế quy định, và quan trọng hơn tất cả, không còn được biết là gì.”

Vậy, hình như cái được gọi là nguyên tử “có thể bị phân tán và có thể bị tiêu diệt”. Những điện tử và dương tử cấu thành một nguyên tử “có thể gặp nhau và tiêu diệt lẫn nhau”. Trong lúc ấy, sự bền vững của hai thành phần điện tử và dương tử, chỉ tựa hồ như sự vững bền của một lượn sóng, không có giới hạn chắc chắn, và luôn luôn nằm trong tiến trình biến đổi liên tục, cả hai đều thay đổi hình thức và vị trí.”

Theo Đức Giám Mục Berkeley, cái được gọi nguyên tử là một giả tưởng của siêu hình học và Ngài chủ trương có một thực chất tinh thần gọi là linh hồn.

Sau khi tìm hiểu cái hồn, Hume viết như sau:

“Có vài triết gia tư tưởng rằng trong mỗi chập tư tưởng chúng ta mật thiết ý thức cái gọi là “Ta” và chúng ta cảm giác rằng cái “Ta” có thật, và thật sự tồn tại. Các triết gia ấy, ngoài sự hiển nhiên của mọi luận chứng, cũng quả quyết rằng cái “Ta” hoàn toàn không biến đổi và không thể phân chia.

“Riêng về phần tôi, khi xâm nhập mật thiết vào cái mà tôi gọi là “Tôi” thì luôn luôn tôi vấp phải một cảm giác đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng hay tối, thương hay ghét, vui hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt gặp cái “Tôi”, ngoài những cảm giác ấy, và chưa hề chiêm nghiệm được cái gì ngoài cảm giác …” [5]

Bergson nói:

“Tất cả mọi tâm thức chỉ tồn tại trong thời gian sinh hoạt và một trạng thái tâm, nếu không biến đổi thì không còn là trạng thái nữa. Trạng thái tâm là một sự biến đổi không ngừng. Nếu sự biến đổi ngưng là trạng thái tâm cũng ngưng. Trạng thái tâm chẳng qua là sự biến đổi.”

Theo nhà tâm lý học trứ danh Watson:

“Chưa có ai từng sờ đụng một linh hồn, hay nhìn thấy linh hồn trong một ống thí nghiệm, hay bằng cách gì khác, để tiếp xúc với linh hồn, như đã từng tiếp xúc với các vật khác trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, ngờ vực sự hiện hữu của linh hồn được coi là phản tôn giáo và có thể bị rơi đầu. Cho đến ngày nay, người có địa vị ưu tú cũng không dám nêu vấn đề ấy lên.” [6]

Đề cập đến vấn đề linh hồn, Giáo sư James viết:

“Cho đến nay, để giải thích những sự kiện thật sự có thể chứng minh được về kinh nghiệm của thân thì thuyết linh hồn là hoàn toàn vô ích. Cho đến nay không ai có thể bị cưỡng bách phải chấp nhận thuyết ấy vì những lý do khoa học.

“Cái Ta (dùng như một túc từ) là sự kếp hợp do kinh nghiệm, cấu tạo với sự vật đã được biết một cách khách quan. Vậy cái Ta (thường dùng như một chủ từ) biết được sự vật ấy không thể là một sự kết hợp. Không thể dùng cái Ta ấy trong những nhu cầu tâm lý và xem nó như một thựa thể siêu hình không biến đổi, một linh hồn trường tồn bất biến.

Cũng như không thể xem nó như một nguyên lý, một bản ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian. Cái “Ta” chỉ là một tư tưởng biến đổi từng chập. Không một tư tưởng nào giống chập tư tưởng trước kế đó, nhưng luôn luôn thuận ưng theo chập tư tưởng trước để cùng chung hợp lại thành một tư tưởng riêng biệt.” [7]

Và giáo sư James kết luận đoạn sách thích thú về linh hồn như sau:

“Chính cái tư tưởng là người tư tưởng”

Và đó là dư âm của những lời mà Đức Phật đã dạy từ hơn 2500 trước, trong vùng thung lũng sông Hằng (Ganges).

Phật Giáo dạy một thứ tâm lý học trong đó không có linh hồn. Phật Giáo chủ trương rằng chúng ta là sự cấu hợp của hai thành phần Danh và Sắc (nama-rupa), phần tâm linh và phần vật chất, và hai thành phần nầy ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối trường lưu bất tức.

Từ ngàn xưa, những nhà hiền triết Ấn Độ cũng có tin một nguyên tử bất khả phân tán gọi là Paramanu. Theo quan niệm thời bấy giờ, 36 Paramanu hợp thành một Anu; 36 Anu hợp thành một Tajjari; 36 Tajjari hợp thành một Ratharenu. Một hạt bụi rất nhỏ mà ta thấy vởn vơ trong làn ánh sáng, gọi là Ratharenu. Vậy, nếu chia hột bụi kia làm 46.656 phần thì Paramanu là một phần nhỏ ấy (1/46.656).

Theo quan niệm thời bấy giờ thì Paramanu là đơn vị vi tế nhất của vật chất, không thể phân chia được nữa.
Với nhãn quang siêu phàm, Đức Phật phân tách Paramanu và tuyên bố rằng Paramanu gồm có những năng lực tương quan gọi là Paramattha, hay là thành phần chánh yếu của vật chất .

Những Paramattha ấy là Đất (Pathavi), Nước (Apo), Lửa (Tejo), và Gió (Vayo), gọi là Tứ Đại.

Đất (Pathavi) là thành phần có đặc tính duỗi ra, thể chất của phần vật chất. Nếu không có thành phần đất (Pathavi), thì một vật thể không thể chiếm không gian. Hai tánh cách tương đối, cứng và mềm, là điều kiện của thành phần ấy.

Nước (Apo) là thành phần có đặc tính làm dính liền lại. Do ngũ quan, ta có thể tiếp xúc với thành phần Đất (Pathavi), nhưng không thể dùng mắt, tai, mũi, lưỡi và thân để tiếp xúc với thành phần Nước (Apo) trong vật chất. Chính thành phần nầy làm cho những phân tử rời rạc của vật thể dính liền lại và cho ta ý niệm hình thể. Khi một vật ở thể đặc chảy ra thì thành phần Nước (Apo) trong chất lỏng ấy trở nên trội hơn. Khi một vật ở thể đặc bị phân tán thành bụi, trong mỗi hột bụi tí ti cũng có chứa thành phần Nước. Hai Paramattha, Đất (Pathavi) và Nước (Apo), trong vật chất liên quan với nhau thật là mật thiết. Khi thành phần Nước (Apo), có đặc tánh làm dính liền, tiêu tan, thì thành phần Đất (Pathavi), có đặc tính duỗi ra cũng không còn.

Lửa (Tejo) là thành phần nóng trong vật chất. Lạnh cũng là một hình thức của Lửa (Tejo). Cả nóng lẫn lạnh đều nằm trong thành phần Lửa (Tejo) của vật chất và cả hai đều có năng lực làm cho vật chất trở nên chín mùi, hay nói cách khác tạo sinh lực cho vật chất. Vật chất được tồn tại hay bị hư hoại đều do thành phần Lửa. Trái với ba thành phần khác trong Tứ Đại, Lửa (Tejo), cũng gọi là Utu, có năng lực làm cho vật chất tự mình hồi sinh.

Gió (Vayo) là thành phần di động. Chính thành phần Gió (Vayo) trong vật chất tạo nên sự vận chuyển và được xem là năng lực làm phát sanh hơi nóng.

Sự di động và nhiệt lực trong phạm vi vật chất cũng tương đương như tâm và nghiệp trong phạm vi tinh thần.

Tứ Đại, Đất-Nước-Lửa-Gió, là những đơn vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn chuyển hóa là màu sắc (vanna), hương (gandha), vị (rasa), và bản chất dinh dưỡng (oja).

Tứ Đại và bốn chuyển hóa luôn luôn dính liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng trong một loại vật chất, thành phần nầy có thể trội hơn thành phần khác. Thí dụ như trong đất, thành phần Đất (Pathavi) trội hơn ba thành phần kia. Trong nước thì thành phần Nước (Apo) trôi hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Teio) và trong không khí thì thành phần Gió (Vajo) trội hơn.

Như vậy, vật chất gồm có những năng lực và những đặc tính trong trạng thái liên tục biến đổi, luôn luôn trôi chảy như một dòng suối. Theo Phật Giáo vật chất chỉ tồn tại trong thời gian bằng 17 lần một chập tư tưởng.[8]

Tâm, thành phần quan trọng hơn trong guồng máy phức tạp của con người gồm có 52 trạng thái tâm (tâm sở) luôn luôn biến đổi. Thọ (vedana), hay cảm giác, là một. Tưởng (sanna), hay tri giác, là một tâm sở khác. 50 tâm sở còn lại gọi chung là Hành (samkhara), hay là những sinh hoạt có tác ý của tâm. Trong 52 trạng thái tâm, hay tâm sở, tác ý (cetana), hay “ý muốn làm” là quan trọng nhất. Tất cả tâm sở đều phát sanh trong thức (vinnana), hay Tâm.

Theo triết học Phật Giáo, không có một khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống rỗng, nghĩa là không lúc nào không có một loại tâm duyên theo một đối tượng vật chất hay tinh thần. Thời gian tồn tại của một loại tâm như vật gọi là chập tư tưởng. Khi một chập tư tưởng diệt, tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy, những chập tư tưởng liên tục nối tiếp, và thời gian tồn tại của một chập tư tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm được.

Mỗi chập tư tưởng gồm ba giai đoạn (khana): Sanh (uppada), Trụ (thiti), và Diệt (bhanga).

Ngay khi một tư tưởng vừa qua giai đoạn diệt (bhanga), tức khắc giai đoạn sanh (uppada) của chập tư tưởng kế khởi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, mỗi chập tư tưởng khi diệt, chuyển tất cả năng lực và tất cả những cảm giác thâu nhận cho chập tư tưởng kế tiếp. Mỗi chập tư tưởng mới gồm những tiềm năng do chập tư tưởng trước trao lại và thêm vào đó còn có cái gì khác nữa. Như vậy có sự luân lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm như một dòng suối luôn luôn trôi chảy. Chập tư tưởng mới không hoàn toàn giống chập tư tưởng trước bởi vì thành phần cấu tạo đã đổi mới, mà cũng không tuyệt đối là khác bởi vì cả hai cùng nằm trong một luồng sống, một dòng đời. Không có chúng sanh đồng nhất nhưng có sự đồng nhất trong tiến trình đời sống của chúng sanh.

Không nên nhận định rằng tâm là một chuỗi dài những chập tư tưởng riêng biệt, kế tiếp nối liền với nhau, như một sợi dây xích, hay một đoàn những toa xe lửa nối liền. Trái lại, “nó liên tục trôi chảy như một dòng sông, luôn luôn tiếp nhận dồi dào những thành phần mới, từ những chi lưu ngũ quan và luôn luôn cung cấp cho thế gian chung quanh những tư tưởng mới thâu nhập trên đường đời [9]”.

Trong chuỗi dài những trạng thái tâm, có sự kề nhau nối tiếp mà không có trạng thái chập chồng cái nầy trên cái kia như có người lầm tưởng. Không có chập tư tưởng đã qua mà còn trở lại. Không có chập tư tưởng hoàn toàn giống hệt chập qua. Những trạng thái ấy luôn luôn biến đổi, không thể tồn tại trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Hạng phàm nhân còn lúng túng trong ảo mộng, lầm nhận sự liên tục giả mạo bên ngoài ấy là cái gì vững bền, vĩnh viễn, không đổi thay, và còn đi xa đến đổi đưa một linh hồn trường tồn bất biến (giả định là người vừa hành động vừa quan sát hành động) vào trong cái tâm luôn luôn biến đổi.

Bốn loại hiện tượng tâm linh, hợp với một hiện tượng vật lý, tạo nên Ngũ Uẩn (pancakkhandha), sự kết hợp vô cùng phức tạp của năm thành phần cấu tạo một chúng sanh.

Mỗi cá nhân là sự phối hợp của năm uẩn ấy.

Nhìn ra đại dương ta thấy một biển nước bao la, những thành phần bé nhỏ trong biển cả là sự kết hợp của nhiều giọt nước li ti. Trên bờ biển, cát nhiều vô số kể, nhưng ta chỉ thấy một thảm cát trãi dài trên bãi. Những lượn sóng kế tiếp nhô lên rồi tan ra trên mặt cát, nhưng một cách chính xác, không có một lượn sóng đồng nhất, bất biến, từ đáy sâu của biển cả nhô lên để rồi tan mất sự đồng nhất ấy trên bãi cát.

Xem xi-nê, ta thấy cảnh vật di động trên màn ảnh, nhưng thực ra chỉ có những hình ảnh riêng biệt, liên tục tiếp diễn theo một tốc độ nào và cho ta cảm giác đang nhìn một hoạt cảnh liên tục.

Ta không thể nói hương hoa tỏa ra từ tai hoa, nhụy hoa, hay từ sắc màu của hoa, nhưng mùi thơm là của hoa.

Cùng một thế ấy mỗi cá nhân là sự kết hợp của năm uẩn.

Toàn thể tiến trình của những hiện tượng tâm-vật-lý ấy luôn luôn trở thành rồi tan biến, sanh rồi diệt. Đôi khi Đức Phật dùng danh từ thông thường mà gọi tiến trình ấy là “Ta” hay atta. Tuy nhiên, đó chỉ là một tiến trình luôn luôn biến đổi chớ không phải là một thực thể trường tồn bất biến.

Phật Giáo không hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của một cá tính theo nghĩa thông thường của nó. Phật Giáo chỉ phủ nhận – trong định nghĩa cùng tột (Paramatha Saccena, Chân đế) – một chúng sanh bất biến, một thực thể vĩnh cửu, chớ không phủ nhận có sự liên tục trong tiến trình.

Danh từ triết học Phật Giáo gọi một cá nhân là Santati, một sự trôi chảy, một triều lưu, hay sự liên tục.

Dòng triều lưu bất tức hay sự liên tục không ngừng ấy của hiện tượng tâm-vật-lý – do nghiệp lực tạo điều kiện – đã bắt nguồn từ quá khứ xa xôi mà ta không thể quan niệm, và sẽ còn liên tục diễn tiến trong tương lai vô tận, ngoại trừ trường hợp ta áp dụng Bát Chánh Đạo một cách đầy đủ và đúng mức.

Chính dòng triều lưu liên tục của hiện tượng tâm-vật-lý ất là cái mà các hệ thống tín ngưỡng khác gọi là cái “Ta” vĩnh cửu hay cái “linh hồn” trường tồn.

— Nếu không có linh hồn, coi như một thực thể đơn thuần, không biến đổi, thì cái gì tái sanh?

Theo Phật Giáo, sanh là sự kết hợp của những uẩn (khandas) hay nhóm, hợp thể (khandhanam patubhavo).
Cũng như sự tái sanh của một trạng thái vật chất phải do trạng thái trước làm nguyên nhân và tạo điều kiện, những hiện tượng tâm-vật-lý nầy cũng phát hiện do những nguyên nhân từ trước khi sanh làm điều kiện. Tiến trình biến đổi hiện tại là kết quả của lòng khao khát ham muốn duyên theo sự biến đổi trong một kiếp sống trước, và bản năng ham muốn tự nhiên trong hiện tại sẽ tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp đến. Trong một kiếp sống, tiến trình của đời sống có thể diễn tiến mà không cần có một thực thể trường tồn di chuyển từ chập tư tưởng nầy sang chập tư tưởng kế, thì một loạt tiến trình cũng có thể đặc tính mà không cần có một cái gì khác chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác.

Thuyết tái sanh của Phật Giáo không phải thuyết chuyển sinh linh hồn, hiểu như có sự di chuyển của một linh hồn từ thân xác nầy đến cơ thể vật chất khác. Trong sách vua Milinda Vấn Đạo (Milinda Panha) và Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga), Đại Đức Nagasena và Đại Đức Buddhagosa đã dùng nhiều truyện ngụ ngôn để giúp ta lãnh hội dễ dàng định luật tái sanh của Phật Giáo.

Câu truyện mồi lửa rất là rõ ràng. Đời sống xem như một ngọn lửa, và hiện tượng tái sanh như sự mồi lửa từ cây đèn nầy sang cây đèn khác. Ngọn lửa của đời sống liên tục tiếp diễn, mặc dầu có sự gián đoạn bộc lộ ra bên ngoài mà ta gọi là cái chết.

Vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:

“Kính bạch Đại Đức, phải chăng có sự tái sanh mà không có gì chuyển sinh thân nầy đến xác thân khác?”

– Đúng như vậy, sự tái sanh diễn tiến không cần có cái gì chuyển sinh thân nầy đến thể xác khác?”

– Xin Ngài ban cho một thí dụ.

– Tâu Đại Vương, thí dụ người nọ dùng lửa của cây đèn nầy để mồi cây đèn kia. Có phải ngọn lửa cây đèn nầy chuyển sang cây đèn kia không ?

– Kính bạch Ngài, không phải vậy.

– Đúng thế, tâu Đại Vương, tái sanh diễn tiến không cần có sự di chuyển của một cái gì từ nơi nầy đến nơi khác.

– Kính bạch Đại Đức, xin Ngài ban cho một thí dụ khác.

– Tâu Đại Vương, Ngài còn nhớ không, thửa nhỏ đi học, ông thầy dạy làm thơ đọc cho Ngài nghe vài vần thơ để Ngài đọc theo đến thuộc lòng.

– Bạch Ngài, có như vậy.

– Vậy, tâu Đại Vương, có phải lời thơ chuyển từ ông thầy sang trí nhớ của Đại Vương không?

– Bạch Ngài, không.

– Cùng một thế ấy, tâu Đại Vương, hiện tượng tái sanh diễn tiến mà không cần có cái gì chuyển từ chổ nầy sang qua nơi khác.

Và Đức vua Milinda hỏi tiếp:

– Kính Bạch Đại Đức, vậy thì cái gì tiếp nối từ kiếp nầy sang kiếp khác?

– Tâu Đại Vương, chính Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, cũng được sanh ra trong kiếp sống kế.

– Có phải cũng tâm và thể xác trước được di chuyển đến và sanh trở lại trong kiếp sống sau không?

-Tâu Đại Vương, không phải chính tâm và thể xác trong kiếp trước được được sanh trở lại trong kiếp sống nầy. Tuy nhiên, Danh và Sắc ở kiếp trước đã hành động, gây nhân , tạo nghiệp – thiện hay ác – và tùy thuộc nơi nghiệp ấy, tâm và thể xác được sanh ra trong kiếp nầy.

– Kính bạch Đại Đức, nếu không phải chính tâm và thân trước được sanh trở lại trong kiếp kế thì ta có thể tránh khỏi quả báo của những hành động bất thiện không?

– Nếu không có sự tái sanh thì ta không còn trả quả của những hành động bất thiện, nhưng tâu Đại Vương, ta đã tái sanh trong một kiếp sống khác thì tức nhiên phải còn chịu hậu quả của những hành động quá khứ.

– Kính thỉnh Đại Đức cho một thí dụ.

– Tâu Đại Vương, cũng như người nọ bẻ trái xoài của một người khác, bị chủ bắt, nạp cho vua và thưa: “Tâu Đại Vương, người nầy đã lấy của tôi một trái xoài”, và người nọ trả lời: “Tâu Đại Vương, tôi không có lấy trái xoài của ông ấy. Trái xoài mà tôi bẻ không phải là trái mà ông ấy đã trồng ra cây xoài. Như vậy tôi không đáng bị trừng phạt.” Vậy, Tâu Đại Vương, người lấy trái xoài có đáng bị phạt không?

– Kính bạch Đại Đức, dĩ nhiên người ấy đáng tội.

-Vì lẽ gì?

– Bạch Ngài, dầu có viện lẽ nào để chạy tôi, người ấy cũng đáng bị phạt vì trài xoài mà người ấy bẻ là do xoài của ông kia trồng ra cây.

– Cùng một thế ấy, Tâu Đại Vương, với tâm và thân nầy ta làm một điều gì – thiện hay ác – và do hành động ấy, một tâm và thân khác được sanh ra trong kiếp mới. Như ,vậy, ta không tránh khỏi sự ràng buộc của nghiệp quá khứ. [10]

Đại Đức Buddhaghosa giải thích điểm phức tạp nầy bằng những thí dụ như tiếng dội, ánh sáng, con dấu và sự phản chiếu của mặt gương.

Một văn hào hiện đại cũng giải thích tiến trình tử-sanh ấy bằng một loạt những quả bi da. [11]

“Thí dụ như, nếu một quả bi da lăn đến đụng một quả khác đang ở yên một chổ, thì quả lăn tới ngưng lại và quả bị đụng lại lăn. Không phải quả banh lăn chuyển sang quả banh bị đụng. Nó vẫn còn nằm lại phía sau, nó chết. Nhưng ta không thể phủ nhận rằng chính sự di chuyển của nó, sức xung kích của nó, cái kết quả dĩ nhiên, hay cái nghiệp lực của quả banh trước phát hiện trong quả banh kế, chớ không phải một chuyển động mới khác được tạo ra.”

Cùng một lối ấy – để dùng những danh từ thông thường – xác thân chết, và nghiệp lực tái sanh trong một cơ thể khác mà không cần có cái gì di chuyển từ kiếp sống nầy sang kiếp khác. Chúng sanh mới được sanh ra, không thể hoàn toàn là một, nhưng cũng không tuyệt đối khác hẳn với chúng sanh vừa chết, bởi vì cả hai cùng nằm trong một luồng nghiệp. chỉ có sự liên tục của dòng đời, triền miên thay đổi, tiếp diễn trong một thể xác mới, bất di bất dịch, chuyển sang từ thể xác nầy sang thân khác.

***
Chú thích:
[1] Religion and Science, trang 132.
[2] Bertrand Russell, The Riddle of the Universe, trang 166.
[3] Religion and Science, trang 132.
[4] Religion and Science, trang 166.
[5] William James, Principles of Psychology, trang 351.
[6] Watson, Behaviourism, trang 4.
[7] Principles of Psychology, trang 215.
[8] Theo các nhà chú giải kinh điển, nếu chia thời gian của một cái nhoáng ra làm một triệu phần thì thời gian của một chập tư tưởng còn ngắn hơn là một phần triệu của thời gian một cái nhoáng.
[9] Xem Compendium of Philosophy – Introduction, trang 12.
[10] Xem Warren, Budhism in Translations, trang 234-235.
[11] Xem sách “Buddha and the Gospel of Budhism”, trang 106, của tác giả Dr. Ananda Coomasvami.
Trích:
Đức Phật và Phật Pháp
(The Buddha and His Teachings)
Tác giả: Hòa thượng Narada – Dịch giả: cư sĩ Phạm Kim Khánh[/I]

Địa Ngục có thật hay hoang đường ?

Câu hỏi:

…”…Năm nay tôi đã trên sáu chục tuổi, ở cái tuổi mà hằng ngày tìm tên bạn bè trên những mục cáo phó, phân ưu trong các nhật báo và tuần báo. Biết rằng giờ phút ra đi của mình cũng chẳng còn bao xa, cho nên đêm đêm nằm trằn trọc, tôi băn khoăn không biết tương lai sau khi tắt hơi, mình sẽ về đâu.

Thuở nhỏ, mỗi khi làm điều lỗi, tôi thường được nghe người lớn hù dọa về Thập Ðiện Diêm Vương, về các loại địa ngục ở dưới đất, vân vân, nhưng tôi không quan tâm. Ðến nay gần đất xa trời, nhiều lúc tôi mơ hồ cảm thấy một nỗi sợ hãi mênh mông, nên gửi thư này xin thỉnh ý quý vị về vấn đề địa ngục….”…

Đáp:

Không riêng vị thính giả gửi là thư này, mà nhiều người trong chúng ta, dù có niềm tin về một tôn giáo nào đó, hoặc không tin thần thánh gì cả, cũng có đôi chút ấn tượng trong đầu về một cảnh giới được đặt tên là Địa Ngục.

Ý niệm về địa ngục được hình thành từ thời cổ xưa, xuất hiện cùng với ý niệm về ông Trời, về Thượng Ðế, về các loại thánh thần vân vân. Hầu hết các tôn giáo đều nói đến những sự thưởng phạt sau khi chết, được thưởng thì được sinh lên thiên đường hưởng phước, bị phạt thì bị đầy xuống địa ngục chịu tội. Thời trước người ta tin là trái đất vuông, mặt đất bằng phẳng, cho nên thiên đường được giới thiệu là ở cao tít trên mây, và địa ngục ở dưới sâu trong lòng đất. Lý do để được thưởng hay bị phạt thì tùy theo luật lệ của mỗi tôn giáo quy định.

Suốt chiều dài của lịch sử loài người, hình ảnh về Thiên Đường và Địa Ngục đã giúp những bậc trưởng thượng trong các bộ lạc, làng mạc, thôn xóm, gia đình, như là một trợ huấn cụ đắc lực để răn đe con cháu khỏi làm điều sai trái.

Sau này, khi các “tổ chức tôn giáo” hình thành, thì vai trò thiên đường và địa ngục lại càng đắc lực hơn, trong việc tạo ấn tượng về thưởng phạt, về nỗi khiếp sợ sẽ bị đầy xuống địa ngục nếu trái lệnh, hoặc sự cứu rỗi nếu người tín đồ vâng lời, khiến cho từ trong tiềm thức, người ta tin chắc rằng cần phải có một nơi để bấu víu, để nương tựa sau khi chết, nếu không sẽ phải chịu muôn vàn khốn khổ, thiêu đốt vĩnh viễn trong địa ngục.

Có niềm tin cho là sau khi con người chết đi, linh hồn xuống tới âm phủ, thì “quỷ thần hai vai” của người ấy sẽ đem tất cả công và tội của họ tâu lên vua Diêm Vương để ông ta quyết định sự thưởng phạt, hoặc cho lên trời hưởng phước, hoặc đầy vào các loại địa ngục mà tên gọi thường là rất rùng rợn, tùy theo sáng kiến của người phát minh.

Ðạo Phật không tin chuyện quỷ thần hai vai và ông Diêm Vương nào đó lại có thể quyết định vận mạng của ai được. Nền đạo đức Phật giáo không xây dựng trên sự thưởng phạt ở thiên đường hoặc địa ngục, do các thần linh áp đặt, mà lấy quy luật nhân quả làm căn bản.

Tâm lý học Phật giáo cho rằng tất cả những việc mà mỗi dòng đời tạo ra, trải dài theo cuộc hành trình trong thế giới hiện tượng tương đối này, là những hạt giống, hay còn gọi là chủng tử thiện hoặc ác, trong tương lai khi hội đủ cơ duyên, sẽ nẩy nở thành những thiện quả hoặc ác báo, đều chứa tại Thức Thứ Tám, còn gọi là Tàng Thức hoặc A Lại Da Thức, của chính dòng sinh mạng đó. Thức này là lớp Vọng, cũng mênh mông như Chân Tâm, tạm ví như làn sóng điện trong không gian.

Những chủng tử thiện hoặc ác này sẽ xuất hiện vào giây phút lâm chung, để quyết định cảnh giới tái sinh của đương sự, nhà Phật gọi là “gió Nghiệp cuốn đi tái sinh”. Một số người có kinh nghiệm về cận tử (near death experience) kể lại đại khái rằng vào cái lúc họ cảm thấy muốn ngừng thở, bỗng nhiên trước mắt nổi lên một cảnh tượng tràn ngập không gian, cả quãng đời quá khứ, những việc làm khiến cho họ rất sung sướng hoặc rất đau khổ, xuất hiện như là đồng thời. Họ cảm thấy như trong giấc mơ, như là hình ảnh của ký ức. Ðối với quan điểm của nhà Phật thì đó là giây phút mà một người có thể nhìn thấy được chính cái kho chứa các nghiệp nhân, tức là Tàng Thức của mình.

Chiếu theo thành quả tự tu, tự giác ngộ lại Bản Thể của đức Phật, người Phật tử không tin vào sự cứu rỗi do bên ngoài mang đến, mà tin vào chính mình, theo gương sáng của đức Bổn Sư. Trong đời sống, người Phật tử từng bước chuyển hóa tâm, từ xấu ác trở thành lành thiện, đó là giai đoạn chuyển hóa tương đối. Sau đó sẽ bước qua giai đoạn cốt tủy của quá trình tu chứng là “thanh tịnh hóa tâm”, vượt lên trên những khái niệm thiện và ác tương đối, chỉ còn lại tâm Từ Bi và Trí Tuệ Bình Ðẳng, hóa giải tam độc Tham Sân Si, vốn là căn bản trói buộc con người vào vòng sinh tử. Từ đây dòng sinh mệnh được hoàn toàn giải phóng, đạt được mục tiêu tối cao của con đường tu Phật, là Toàn Giác.

Có câu chuyện ẩn dụ về sự tự tu, tự độ như sau:

“Trong khu vườn kia có một nhóm thiền sinh đang đứng chung quanh vị thiền sư. Góc vườn là một con cọp bị trói. Thiền sư hỏi đám học trò:

– Có ai biết cách cởi trói cho con cọp không?

Ðám thiền sinh góp ý, người thì bàn “lấy tấm lưới chụp nó”, người thì bảo ”xông thuốc mê cho nó”. Cuối cùng, một thiền sinh ung dung:

– Cứ bảo người nào đã trói được nó, thì chính người đó mở trói cho nó là xong.”

Câu chuyện nói lên tính chất của quy luật nhân quả, người nào tạo nhân thì người đó lãnh quả, người nào ăn thì người đó no, người nào tu hành thanh tịnh hóa tâm thì người đó giác ngộ.

Như thế về căn bản, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi, mà tin lời Phật tuyên bố khi mới thành đạo:

“Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”

… và câu di huấn khi Ngài sắp nhập cảnh giới Niết Bàn:

“Mọi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. 

Ðuốc ở đây là đuốc Tuệ, là ngọn đèn trí tuệ mà đức Phật đã giơ cao, nay còn nằm trong kinh điển, mỗi người đều cần phải “tự học, tự tu, tự giác thành Phật”.

Tuy nhiên, trên con đường giáo hóa chúng sinh từng bước, đạo Phật đi trong nhân gian thường dùng những phương tiện đã sẵn có của người dân địa phương để truyền bá tư tưởng nhà Phật, theo tôn chỉ “tùy duyên mà bất biến”, dùng bình địa phương đựng thuốc Phật giáo, khiến cho mọi người đều được thấm nhuần tư tưởng từ bi hỷ xả mà không cảm thấy nền văn hóa truyền thống của họ bị xúc phạm. Thí dụ tượng ảnh đức Phật khi ở Ấn Ðộ thì gầy gò, nghiêm túc, đúng là hình ảnh người tu khổ hạnh. Sang tới Mỹ, tại tu viện Shasta trên sườn núi Shasta, nơi có trên sáu chục vị sư người Tây Phương từ các tôn giáo khác chuyển qua đạo Phật đang tu hành, thì tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lại giống hệt tượng Ðức Mẹ. Trong khi đó, tượng ảnh Phật và chư Bồ Tát bên Trung Hoa thì lại mập mạp, hơi mỉm cười, đượm vẻ từ bi, cảm thông với chúng sinh, theo truyền thống hiếu khách của người Á Đông là “đem lại niềm vui cho nhau”.

Tóm lại, đạo Phật cũng nói về thiên đường và địa ngục, nhưng với ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Từ quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm, thiên đường và địa ngục dưới mắt người Phật tử chính là những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua hằng ngày. Nếu con người không chế ngự được ba thói xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi trong sự bon chen, tính toán lợi mình hại người, thì tâm hồn không được an lạc, mà phiền não triền miên, ăn không ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những bực bội bất mãn gặp phải hằng ngày, đó cũng đã được coi là cảnh giới địa ngục của tâm thức rồi.

Trong kinh Ðịa Tạng, chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới địa ngục. Vì “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh giới trong kinh Ðịa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức. Ðịa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Ðịa, là Ðất Tâm. Nhà Thiền có câu “Ðất Tâm nếu trống không thì mặt trời Trí Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa tâm”, khiến cho Ðất Tâm trống không, thí Trí Tuệ Bình Ðẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Ðịa Tạng đã phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi. Còn như nếu Ðất Tâm mà ô nhiễm quá, thì vào giờ phút lâm chung, do nghiệp thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.

Quan điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên thế gian là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển thì tất cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm.

Cho nên, đối với nhà Phật, không có cảnh giới địa ngục vĩnh viễn. Mỗi người đều có thể tự ra khỏi địa ngục bằng sự “thanh tịnh hóa tâm” của họ. Ðó là niềm hy vọng về giải thoát của tất cả mọi người.

Nhà Phật có câu: “ Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”. “Buông dao” và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống ô nhiễm, bước vào con đường thực hành các phương pháp để “thanh tịnh hóa tâm” như Mật Tông, Thiền Bắc Tông, Thiền Nam Tông, Tịnh Ðộ Tông, vân vân …

Trên đây chúng tôi đã trình bày vài khái niệm về địa ngục. Nay xin nói về nỗi sợ hãi mênh mông của vị thính giả gửi về câu hỏi.

Xin thưa rằng, tất cả loài người chúng ta, mà có lẽ luôn cả các loài sinh vật nữa, kể từ thời tiền sử, đều đã mang sẵn một nỗi sợ hãi mênh mông. Ngay khi vừa mới lọt lòng mẹ, đứa bé đã khóc thét lên vì sợ, tay chân quờ quạng, chới với. Nó đang được nằm trong bào thai, được bảo bọc chặt chẽ, ấm áp trong lòng mẹ nó, nay bỗng nhiên rơi tõm vào một khoảng không gian trống rỗng, nên nó thất kinh hồn vía.

Rồi theo với thời gian, càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi sợ hãi, từ những nỗi sợ nhỏ nhít linh tinh như sợ bị đòn, cho tới nỗi sợ mất mát người thân yêu, mất nước, vân vân. Vì nỗi sợ hãi triền miên này mà tinh thần con người bị giam hãm, không khai phóng nổi.

Chúng tôi xin trích dịch một đoạn bình luận về sự sợ hãi do tư tưởng gia J. Krishnamurti trình bày trong cuốn On Fear, ông viết:

“Ðầu tiên chúng ta hãy tự hỏi “sợ là gì” và “nỗi sợ hãi nổi lên như thế nào”?

Ðối với chúng ta, bản thân từ ngữ “sợ” nghĩa là gì? Tôi đang tự hỏi “sợ là cái gì”, chứ không phải là “tôi sợ cái gì”.

Hiện tại, ngay lúc tôi đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi không sợ, chẳng có chuyện gì xẩy ra cho tôi, chẳng ai đe dọa hoặc lấy cái gì của tôi. Nhưng ngoài cái thời gian đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi còn có một lớp sâu hơn, đó là vùng ý thức hoặc vô thức, đâu đó, manh nha tới điều gì đó có thể xảy ra cho tôi trong tương lai, hoặc e ngại về một cái gì đó từ thời quá khứ đột nhiên ụp xuống đầu tôi. Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn tương lai. Thế là tôi đã chia thời gian ra thành quá khứ và tương lai. Ðến đây thì sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng:

“Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa đâu”,
hoặc
“Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ tuy là anh đã có chút đỉnh, nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu chừng ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ mất công ăn việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành người có danh vọng. Có thể anh sẽ cô đơn… “

Bây giờ chúng ta hãy thử xét tới cái dạng sợ hãi của chính bạn. Nhìn coi. Quan sát kỹ phản ứng của bạn đi. Bạn có thể nhìn nỗi sợ hãi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ chạy, không nẩy ra chút ý muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm chế chăng? Bạn có thể trực diện nỗi sợ đó mà không có trong tâm cái từ ngữ đã làm thức dậy nỗi sợ chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà không có từ ngữ đã đánh thức nỗi sợ chết chăng? Bản thân từ ngữ đã đem tới sự chấn động, cũng như từ ngữ “yêu” có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của chính nó, phải vậy không?

Bây giờ hãy coi có phải là những hình ảnh trong tâm trí bạn về sự chết, ký ức về biết bao nhiêu cái chết mà bạn đã nhìn thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản thân với những chuyện đã xẩy ra còn giữ trong tiềm thức đó, — phải chăng đó chính là hình ảnh đã tạo ra sự sợ hãi trong lòng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ đến chứ không phải là bạn sợ những hình tượng trong tâm đã tạo ra sự chết. Có phải là từ ngữ “chết” làm cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ ngữ hoặc ký ức là lý do để bạn sợ thì chẳng có gì đáng sợ hết ráo.

Giả dụ như hai năm trước bạn bị bệnh, ký ức về sự đau đớn, về cơn bệnh vẫn còn tồn tại trong trí nhớ, nay nó trỗi dậy nhắc nhở “Coi chừng, đừng để bị bệnh lại như lần trước nữa đấy nhé”. Thế rồi ký ức cùng với bè đảng của nó là guồng máy suy tư bèn tạo nên sự sợ hãi, mà thật ra thì chẳng có cái gì đáng để mà sợ hết ráo, vì lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.

Tư tưởng, vốn là cái luôn luôn cũ mèm, bởi vì tư tưởng thoát thai từ ký ức, mà ký ức thì dĩ nhiên là luôn luôn cũ mèm — tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn đang sợ hãi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế. Thực tế là bạn đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về sự đau ốm, vốn đã khắc ghi trong tâm trí, trỗi lên nỗi sợ “Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!”

Như thế chúng ta thấy rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hãi.”

Như J. Krishnamurti đã nói “… chính suy nghĩ gây ra một loại sợ hãi”, đạo Phật từ hai ngàn năm trăm năm trước cũng đã khuyên mọi người nên “thanh tịnh hoá tâm”, nghĩa là đừng để cho tâm chạy nhẩy như con vượn, con ngựa (tâm viên ý mã), thì sẽ được hưởng một đời sống giải thoát từng bước, rồi sẽ tới giải thoát triệt để.

Không cần phải đi tới đích mới được hưởng hoa trái, mà ngay khi quyết định bước lên con đường thanh tịnh hóa tâm là đã bắt đầu được hưởng kết quả, tâm hồn đã thấy thơ thới hân hoan rồi.Có bài kệ trong kinh Phật như sau:

Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh, thẩy đều không
Ấy mới thật là chân sám hối.

Sám hối ở đây là “thanh tịnh hoá tâm”, làm cho “tâm tịnh”, chứ không phải là đem nải chuối tới chùa cúng Phật, hứa hẹn và cầu xin lung tung. Nhà Phật cho rằng con người ta vì vô minh mà tạo nghiệp, thọ báo, cũng ví như một người đang đi trong căn nhà tối. Khi tâm được tịnh rồi “Trí Tuệ Bình Ðẳng tự chiếu”, thì cũng ví như bật ngọn đèn bừng sáng lên, bóng tối biến mất, màn vô minh bỗng tan rã, là lúc con người giác ngộ giải thoát vậy.

Trích: Thư viện Hoa sen

Về vấn đề Tái Sinh

Câu hỏi thứ nhất:

— Nếu linh hồn người chết đi tái sinh thành kiếp sống mới, thì tại sao mấy trăm năm trước, loài người chỉ có mấy trăm triệu, mà nay theo thời gian đã tăng lên tới 5 tỷ, vậy linh hồn của những người mới này ở đâu mà ra?

Đáp:

Trong những kỳ phát thanh trước, chúng tôi đã có trình bày về quan điểm của nhà Phật trước vấn đề “linh hồn”, nay chúng tôi xin nhắc sơ lại.

Nhà Phật quan niệm rằng tất cả mọi hiện hữu đều là do sự biến hiện của Thức. Theo kinh Lăng Nghiêm, dòng sinh mệnh khởi đi do một niệm Vô Minh bất giác, nổi lên từ biển Tâm mênh mông, bỗng thấy có “cái Ta” và “cái không phải Ta”, cũng như người đang thức, chớp mắt đã lạc vào giấc ngủ, mộng thấy đủ thứ hiện ra, bị đánh cũng thấy đau, khóc cũng có nước mắt, sợ hãi cũng chạy trốn, vân vân …

Nhưng thời gian của giấc ngủ bình thường chỉ lâu có một đêm, sáng dậy bèn biết ngay rằng chuyện xảy ra trong đêm là nằm mộng, không thật. Đó là những giấc mộng nhỏ, nằm trong giấc mộng lớn là kiếp người.

Trong dòng sinh tử kéo dài triền miên, từ kiếp này qua kiếp khác, người ta không thể tự tỉnh dậy như đối với giấc ngủ một đêm, mà từ cái niệm Vô Minh bất giác đó khởi đi, trải qua mỗi đời sống, lại do những hành động mà tạo thành nghiệp thiện, hoặc ác. Theo tâm lý học của nhà Phật, thì những hành động thiện hoặc ác này đều chứa trong Tàng Thức (là cái kho lưu giữ lại mọi hoạt động của Thức), làm nhân cho những kiếp sau, tiếp tục trôi lăn trong mê vọng của sinh tử luân hồi, mãi đến khi nào thức tỉnh, trở về trạng thái Tâm Thanh Tịnh, thì mới hội nhập lại với Bản Thể Chân Tâm, mới chấm dứt được dòng sinh tử, đó là Kiến Tánh thành Phật. Phật có nghĩa là người giác ngộ, không phải thần linh.

Vì Vô Minh khởi đi từ vô thủy, hiện hành Thức Tâm sinh diệt, còn gọi là Vọng Tâm sinh diệt, không phải là Thật, là Chân, nên nhà Phật không quan niệm rằng có một cái được coi là Thật, là linh hồn trường tồn bất biến, kéo dài từ kiếp này qua kiếp khác đến vô tận, mà chỉ coi dòng đời hiện ra là do sự chi phối của nghiệp nhân thiện, hoặc ác, trong Tàng Thức, khi Tâm trở lại trạng thái thanh tịnh, không còn nghiệp nhân làm chủng tử gây nên đời sau, thì dòng đời sẽ chấm dứt, hóa giải Vọng Tâm, hội nhập Bản Thể Chân Tâm.

Sự kiện dòng đời xuất hiện là do một niệm Vô Minh bất giác nổi lên từ biển Tâm, cũng có thể tạm ví như một đợt sóng nổi lên từ biển cả. Trong biển cả mênh mông, nhiều hay ít đợt sóng nổi lên, tùy theo gíó thổi mạnh hay yếu. Từ biển Tâm, nhiều hay ít dòng đời xuất hiện, tùy theo nhiều hay ít niệm Vô Minh bất giác. Chúng ta có thể tạm dùng thí dụ cụ thể, cũng như máy thu thanh và làn sóng trong không gian. Vào thời kỳ đầu của kỹ thuật truyền thanh, người ta mới chế tạo được máy phát và thu thanh trên một làn sóng, gọi là radio một đài. Sau này, khoa học kỹ thuật tiến bộ, máy thu thanh có thể thu cả trăm làn sóng khác nhau, nên gọi là radio nhiều đài. Như vậy, dù lúc trước chưa sử dụng được nhiều làn sóng để phóng âm thanh vào, không có nghĩa là không có làn sóng. Và khi khoa học tiến bộ hơn nữa, máy móc tinh vi hơn nữa có thể phát, thu hàng ngàn tỷ làn sóng khác nhau, thì cũng không có nghĩa là những làn sóng đó mới được sinh ra, mà nó vốn có sẵn trong không gian mênh mông, cũng như Biển Tâm vốn đã có sẵn những yếu tố để một niệm Vô Minh có thể khởi lên, bắt đầu một dòng sinh mệnh, hoặc hàng ngàn tỷ niệm Vô Minh khởi đầu hàng ngàn tỷ dòng sinh mệnh.

Ngoài ra, nhà Phật không quan niệm chỉ có một thế giới mà chúng ta đang ở, mà cho rằng trong khoảng không gian bao la, có hằng hà sa số thế giới (hằng hà sa số nghĩa là nhiều như số cát nơi sông Hằng bên Ấn Độ, là một biểu tượng số lượng lớn đến nỗi không thể tính đếm được). Có những thế giới mà nhà Phật thường nhắc đến, gọi là Tam Giới, gồm;

– Dục Giới, là nơi ở của những cuộc sống nhiều tham muốn, cụ thể là thế giới của chúng ta;

– Sắc Giới, là nơi lưu trú của những chúng sinh không còn tham muốn, nhưng vẫn còn có hình thể, tướng mạo.

– Vô Sắc Giới, là cảnh giới mà chúng sinh đã hết tham muốn, không còn hình thể, tạm gọi là thế giới vô hình, chỉ còn tâm thức.

Như thế thì sự sinh hay diệt của một kiếp sống có thể giao thoa trong nhiều thế giới, hữu hình và vô hình, nhưng chúng ta chỉ biết đến có mỗi thế giới loài ngưòi này, nên chỉ suy tính quanh quẩn trong thế giới này mà thôi.

Để có thể thấu triệt vấn đề “linh hồn” theo quan điểm của nhà Phật, xin kính gửi tới quý thính giả một bài pháp, lược trích trong cuốn Ðức Phật và Phật Pháp, do hòa thượng Narada Maha Thera biên soạn theo kinh sách nhà Phật, và do cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch.

Hòa thượng Narada, sinh năm 1898 tại Tích Lan, xuất gia năm 18 tuổi và nhập học tại đại học đường Tích Lan. Sau này, hòa thượng được cử làm giảng sư về môn Đạo Đức Học và Triết Học tại đại học này. Hòa thượng nổi tiếng về kiến thức sâu rộng, nhất là về đạo hạnh và lòng từ bi. Ngài là tác giả của nhiều sách Phật giáo rất có giá trị, thí dụ cuốn “The Manual of Abhidhamma” là bản chuyển dịch ra Anh văn phần uyên thâm nhất của giáo lý nhà Phật. Kinh Pháp Cú cũng được ngài phiên dịch ra Anh văn và chú giải. Còn cuốn “The Buddha and His Teachings” (Đức Phật và Phật Pháp) là một tác phẩm xuất sắc của tác giả. Cuốn này có thể được xem là sách căn bản cho những ai muốn tìm hiểu Phật giáo.

Trong công cuộc hoằng pháp, hòa thượng được cử đi truyền giáo tại Trung Quốc và các nước Đông Nam Á như Cam Bốt, Lào, Việt Nam, Nam Dương, Mã Lai, vân vân … Tại những nơi này, ngài thường được tiếp đón rất nồng hậu. Quốc vương Cam Bốt tôn vinh ngài là Đức Đại Tôn Giả (Sri Maha Sadhu). Ngoài ra hòa thượng cũng đi hoằng pháp tại các nước Tây phương. Năm 1955, ngài sang Úc, và giúp tổ chức các hội Phật Giáo địa phương tại các bang New South Wales, Victoria, Tasmania và Queensland. Năm 1956, hòa thượng sang Anh quốc, tổ chức lễ Tưởng Niệm 2.500 năm ngày Đại Bát Niết Bàn của đức Phật. Sau đó ngài giúp củng cố Phật sự, và xây dựng ngôi chùa danh tiếng mang tên Chùa Phật Giáo Luân Đôn (London Buddhist Vihara). Ngài cũng đã sang Hoa Kỳ thuyết giảng về đề tài “Đức Phật và Triết lý đạo Phật” tại đài kỷ niệm Washington, trước một cử tọa rất đông đảo.

Ngài là một sứ giả Như Lai rất hăng hái và nhiệt tình, thu hút được nhiều người nghe, và lúc nào cũng khuyến khích thành lập các hội Phật Giáo địa phương, để bồi đắp công trình hoằng dương đạo pháp. Hòa thượng Narada có nhiều gắn bó với đất nước và Phật tử Việt Nam. Ngài đã từng đến Việt Nam vào đầu thập niên 1930, mang theo nhiều nhánh cây bồ đề, đã trồng xuống tại nhiều địa danh trong nước, như Phú Lâm (Chợ Lớn), Cần Thơ, Châu Đốc, Vĩnh Long ở miền Tây Nam bộ, Biên Hòa, Phước Tuy, Vũng Tàu ở miền Đông Nam bộ, ra đến Đà Lạt, Huế ở miền Trung và Vinh, Hà Nội ở miền Bắc.

Trong thập niên 1950, khi Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam được thành lập, ngài đến Việt Nam nhiều lần, để thuyết pháp hằng tuần tại chùa Kỳ Viên, Sài Gòn, thu hút đông đảo Phật tử đến nghe, và có rất nhiều người đến xin quy y với ngài. Đặc biệt là vào năm 1963, ngài đã khuyến khích ủng hộ công tác xây cất bảo tháp Thích Ca Phật Đài tại Vũng Tàu, ngày nay được xem như là một di tích lịch sử. Ngoài ra, ngài còn giúp xây dựng một bảo tháp khác ở Vĩnh Long.

Sau đây là lời dạy của hòa thượng Narada, một bậc thầy người ngoại quốc mà Phật tử Việt Nam đã được kết duyên lành, một sứ giả Như Lai đã lặn lội đến những xứ sở xa xôi để chiếu rọi tuệ đăng tới chúng sinh. Hòa thượng Narada dạy rằng:

…”…. Thuyết tái sanh của Phật Giáo không phải là thuyết chuyển sinh linh hồn, hiểu như có sự di chuyển của một linh hồn từ thân xác nầy đến cơ thể vật chất khác. Trong sách vua “Milinda Vấn Đạo”, Đại Đức Nagasena đã dùng nhiều truyện ngụ ngôn để giúp ta lãnh hội dễ dàng quy luật tái sanh của Phật Giáo. Câu truyện mồi lửa rất là rõ ràng. Đời sống xem như một ngọn lửa, và hiện tượng tái sanh như sự mồi lửa từ cây đèn này sang cây đèn khác. Ngọn lửa của đời sống liên tục tiếp diễn, mặc dầu có sự gián đoạn bộc lộ ra bên ngoài mà ta gọi là cái chết.

Vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:

– Bạch Đại Đức, phải chăng có sự tái sanh, mà không có cái gì được chuyển sinh từ xác thân này đến xác thân khác?

Đại Đức Nagasena trả lời:

– Tâu đại vương, đúng như vậy, sự tái sanh diễn tiến không cần có cái gì được chuyển sinh từ thân này đến thể xác khác?”

Vua đề nghị:

– Xin Đại Đức cho một thí dụ.

Đại Đức Nagasena hỏi:

– Tâu Đại Vương, thí dụ có người dùng lửa của cây đèn này để mồi cây đèn kia. Có phải ngọn lửa của cây đèn này được dời qua cây đèn kia không ?

Vua đáp:

– Bạch Đại Đức, không phải vậy.

Đại Đức Nagasena nói:

– Đúng thế, tâu Đại Vương, tái sanh diễn tiến không cần có sự di chuyển của cái gì từ nơi này đến nơi khác.

Vua lại đề nghị:

– Xin Đại Đức cho thêm một thí dụ khác.

Đại Đức Nagasena nói:

– Tâu Đại Vương, Ngài còn nhớ không, thuở nhỏ đi học, ông thầy dạy làm thơ đã đọc cho Ngài nghe vài vần thơ, để Ngài đọc theo đến thuộc lòng.

Vua trả lời:

– Bạch Đại Đức, quả có như vậy.

Đại Đức Nagasena hỏi:

– Vậy thì, tâu Đại Vương, có phải lời thơ được chuyển từ ông thầy sang trí nhớ của Đại Vương không?

Vua đáp:

– Bạch Đại Đức, không.

Đại Đức Nagasena nói:

– Thì cũng như thế, tâu Đại Vương, hiện tượng tái sanh diễn tiến mà không cần có cái gì chuyển từ chổ này sang qua nơi khác.

Vua Milinda hỏi tiếp:

– Bạch Đại Đức, vậy thì cái gì tiếp nối từ kiếp này sang kiếp khác?

Đại Đức Nagasena trả lời:

– Tâu Đại Vương, chính phần tâm linh và phần vật chất, được sanh ra trong kiếp sống kế.

Vua hỏi:

– Có phải cũng chính tâm linh và thể xác trong kiếp trước được di chuyển và sanh trở lại trong kiếp sống sau không?

Đại Đức Nagasena trả lời:

– Tâu Đại Vương, không phải chính tâm linh và thể xác trong kiếp trước được được sanh trở lại trong kiếp sống sau này. Tuy nhiên, tâm linh và thể xác ở kiếp trước đã hành động, gây nhân, tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác, thì tùy thuộc nơi nghiệp ấy, tâm linh và thể xác được sanh ra trong kiếp nầy.

Vua hỏi:

– Bạch Đại Đức, nếu không phải chính tâm và thân của kiếp trước được sanh trở lại trong kiếp kế, thì ta có thể tránh khỏi quả báo của những hành động bất thiện do tâm và thân của kiếp trước gây ra trong kiếp trước không?

Đại Đức Nagasena trả lời:

– Tâu Đại Vương, nếu ta còn tái sanh trong một kiếp sống khác, thì tất nhiên còn phải chịu hậu quả của những hành động trong những kiếp quá khứ. Chỉ khi nào ta chấm dứt được sức mạnh của nghiệp lực, thì ta mới chấm dứt được sự lãnh chịu quả báo, của những hành động thiện, hoặc ác, trong quá khứ mà thôi.

Dr. Ananda Coomasvami, trong cuốn “Buddha and the Gospel of Budhism”, cũng giải thích tiến trình “ tử – sinh “, bằng thí dụ về một loạt những quả bi da “Thí dụ như, nếu một quả bi da lăn đến, đụng một quả khác đang ở yên một chổ, thì quả lăn tới ngưng lại và quả bị đụng bắt đầu lăn. Không phải là quả banh lăn trước được dời sang quả banh bị đụng. Nó vẫn còn nằm lại phía sau, nó chết. Nhưng chính vì sự di chuyển của nó, sức xung kích của nó, cái kết quả dĩ nhiên, hay cái nghiệp lực của quả banh trước, xuất hiện trong quả banh kế, chớ không phải một chuyển động khác mới được tạo ra.”

Cũng như thế, xác thân đã chết, nhưng nghiệp lực tái sanh trong một cơ thể khác, mà không cần có cái gì di chuyển từ kiếp sống nầy sang kiếp khác. Chúng sinh mới được sanh ra, không hoàn toàn là một, nhưng cũng không tuyệt đối khác hẳn với chúng sinh vừa mới chết, bởi vì cả hai cùng nằm trong một luồng nghiệp. Chỉ có sự liên tục của dòng đời, triền miên thay đổi, tiếp diễn trong thể xác mới, là hiện hành trong thân khác, mà thôi. …”…

Trên đây là bài giảng của hòa thượng Narada Maha Thera. Ước mong thày đã gửi được tới quý độc giả đôi chút khái niệm về linh hồn qua nhãn quan của nhà Phật.

Câu hỏi thứ hai:

– Nếu đã có những người chết rồi, khi tái sinh lại nhớ được chuyện kiếp trước, thì tất cả mọi người đều phải nhớ chuyện kiếp trước, sao lại người thì nhớ, người thì chẳng hề nhớ tí nào chuyện kiếp trước cả?

Đáp:

– Cõi đời này là thế giới tương đối, là hư vọng, là tương sinh tương duyên, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, không phải là tuyệt đối chân thật, cho nên nếu có người khi tái sinh không nhớ được kiếp sống cũ, trong khi có người khác lại nhớ được, thì cũng là chuyện nằm trong quy luật tương đối, không có chuyện mọi người phải tuyệt đối giống nhau.

Nhà Phật không thuyết phục mọi người bằng những lối giải thích mê tín, áp đặt người nghe phải tin. Vì thế, trước những hiện tượng xảy ra có bằng chứng rõ ràng, người Phật tử ghi nhận một cách công bình, phóng khoáng. Tuy nhiên, nếu chúng ta dùng những chuyện đã xảy ra để chiêm nghiệm, so sánh, thì cũng có thể tự tìm được câu trả lời, tạm coi như hữu lý.

Nhà Phật cho rằng kể từ lúc một niệm Vô Minh bất giác nổi lên, bỗng thấy có “cái Ta” và “cái không phải Ta”, khởi đầu dòng sinh mệnh, trôi lăn trong môi trường tương đối, thì cũng là khởi đầu giấc mộng dài. Trong giấc mộng dài đó, có những khúc ngắn hơn, tạm gọi là giấc mộng trung bình, là thời gian của một đời sống. Trong khoảng thời gian của giấc mộng trung bình là đời sống đó, lại có những giấc mộng ngắn hơn nữa, là khoảng thời gian của những giấc mộng mà chúng ta có hằng đêm.

Không phải tất cả các giấc ngủ hằng đêm của chúng ta đều có mộng. Hoặc giả tỉ tất cả các đêm đều có mộng, thì cũng không phải là mỗi sáng thức dậy, chúng ta đều nhớ lại tất cả những giấc mộng đã qua. Thực tế là có người đang ngủ bỗng la lên ú ớ, rồi choàng dậy, mắt nhìn ngơ ngác, tim đập mạnh, hoảng hốt, sợ hãi, vì những hình ảnh trong cơn ác mộng vừa qua. Có người lại rất ít khi mộng thấy có chuyện gì xảy ra, dù mọi người đều có những giấc ngủ đại khái giống nhau. Có người lại thường thấy mộng đẹp, trong mộng còn cười lên nữa. Nhưng khi tỉnh dậy, hỏi họ mộng thấy gì mà vui cười, thì họ ngơ ngác vì không nhớ gì cả.

Giấc mộng dài trung bình là cuộc đời thì cũng vậy thôi. Có một số ít người “thấy” được những chuyện xảy ra trong kiếp quá khứ của dòng sinh mạng, hiện vẫn còn trong Tàng Thức ở không gian. Nhưng có nhiều người không “thấy” được gì cả. Cũng như có những người có khả năng phi thường về lòng thương yêu, hy sinh vì người khác, trong khi lại có những người ích kỷ vô cùng tột, không hề biết giúp đỡ tha nhân là cái gì.

Câu chuyện Người đàn bà đi tìm các con của kiếp trước” (The True story of a Woman Who has Lived Before.) được đài truyền hình BBC và đài ABC, chương trình 20/20 thực hiện, đã nói lên sự “thấy” được quá khứ của người mẹ đi tìm con. Nếu chúng ta không “thấy” được quá khứ của chúng ta, thì cũng có thể hiểu được, rằng chúng ta sống trong thế giới tương đối, không thể có sự tuyệt đối giống nhau, của tất cả mọi người và mọi việc.

Trích Thư Viện Hoa Sen

Cloning và Phật Giáo

Hỏi:

– Nếu Phật đã dạy rằng, vạn vật từ Không mà có, vậy thì tại sao linh hồn sau khi chết lại không trở về Không, mà phải đi lang thang từ kiếp này sang kiếp khác?

Đáp:

Nếu nói rằng “vạn vật từ Không mà có” thì cũng không đúng với quan điểm của đạo Phật. Nhà Phật nói rằng: “Vạn pháp trong thế giới hiện tượng tương đối này đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh khởi, cái này sanh thì cái kia sanh. Vì duyên với nhau mà sanh, cho nên khi “cái này diệt thì cái kia diệt”, không có tự thể độc lập của riêng nó, mà sanh diệt tùy thuộc lẫn nhau, chỉ huyễn hiện liên tục, nên còn được phát biểu là : “Vạn pháp đương thể tức không, duyên hợp giả có”. “Có ”nhưng không phải là “thật có”, mà chỉ là “huyễn hiện”, nên gọi là “giả có”.

Nhà Phật quan niệm rằng mỗi dòng sinh mệnh vốn cũng đều từ Tâm, vì một niệm vô minh bất giác khởi vọng mà lưu xuất, vốn từ Tâm chuyển thành Vọng Thức, — nói gọn là Tâm và Thức – bắt đầu dòng sinh tử, rồi từ đó hành động tạo tác, gây nhân thọ quả thiện ác, hình thành nghiệp lực, bị nghiệp lực chi phối, cuốn trôi trong vòng luân hồi sinh tử.

Tâm mênh mông bằng hư không thì Thức cũng mênh mông bằng hư không. Có thể tạm dùng thí dụ cụ thể, dù không đúng hẳn nhưng sẽ giúp dễ hiểu, là ví Tâm với biển cả, Thức với bụi bậm rác rưởi lẫn trong nước biển. Biển rộng mênh mông tới đâu thì rác rưởi cũng trôi nổi tới đó.

Tâm là Bản Thể, thuộc bình diện tạm gọi là tuyệt đối. Thức chỉ là bình diện ô nhiễm của Tâm, còn gọi là thức tâm sinh diệt, thuộc về thế giới hiện tượng tương đối, huyễn hiện theo quy luật “duyên hợp giả có”, tính chất nó là vô thường.

Nhà Phật quan niệm rằng mỗi sinh vật đều do hai thành phần tạo nên, đó là phần tâm thức và phần vật chất, tức là cơ thể chúng sinh. Tâm và Vật duyên sanh trong đời sống. Tâm có thể ví như làn sóng điện và vật chất, thí dụ cơ thể con người, có thể ví như chiếc máy thu thanh. Làn sóng dàn trải trên không gian, máy thu thanh vặn đúng tần số thì bắt được tín hiệu. Khi máy cũ, hư hỏng, không còn sử dụng được nữa, thì mua máy mới, lại tiếp tục vặn lên, bắt làn sóng điện, cũng giống như một sinh vật chấm dứt sự sống thì Thần Thức sẽ lại nhập vào một phôi thai khác để tiếp tục một đời sống mới, do nghiệp lực chi phối, tới tận khi nào tu hành cho tới cảnh mà đức Phật mô tả khi Ngài giác ngộ là:

“Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai mãi đi tìm mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này hỡi người thợ làm nhà,
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gẫy,
Cây đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng nghiệm quả Vô Sanh Bất Diệt và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục”. 

Cái sườn của căn nhà tự tạo ấy là những ô nhiễm như tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, những hành động bất thiện, vân vân.

Cây đòn dong chịu đựng cái sườn nhà là vô minh, căn nguyên xuất phát mọi dục vọng.

Giác ngộ là phá vỡ được cây đòn dong vô minh bằng trí tuệ, là đã làm sập được căn nhà.

Nếu chưa giác ngộ mà vì một lý do nào đó, căn nhà đổ nát, có nghĩa là phần vật chất, tức cơ thể của sinh vật chết đi, Thần Thức sẽ bị cuốn hút bởi cận tử nghiệp, là chập tư tưởng cuối cùng, hội nhập nhân duyên quan hệ với cha mẹ tương lai mà đầu thai, bắt đầu một đời sống mới. Như thế, vì chịu sự chi phối của nghiệp báo, cho nên Thần Thức không thể tự do “trở về Không” được.

Muốn “sinh tử tự tại” để có thể “tùy Nguyện mà thọ sanh” như các vị bồ tát đầu thai vào cõi nhân gian để hoàn thành nguyện ước cứu độ chúng sanh, thì bản thân con người phải tu hành cho tới “Tâm tịnh tội tiêu”. Tội đây chính là những điều mình đã tạo tác trong quá khứ, chính là nghiệp báo vậy.

Đạo Phật không cho rằng “có một linh hồn trường tồn bất biến đi trong cõi u minh hoặc đầu thai từ kiếp này sang kiếp khác”, mà chỉ có cái “Thần Thức”, bị dòng nghiệp lực cuốn đi đầu thai vào cái lúc chấm dứt mỗi kiếp sống, hoặc sau khi chết một thời gian ngắn, khi nghiệp và duyên hội đủ điều kiện để đầu thai mà thôi.

Câu hỏi tiếp như sau:

– Nếu con người có linh hồn, thì Phật pháp làm sao để giải thích vấn đề cloning, lấy cell của một người để tạo nên một người mới, con người mới này có xài chung một linh hồn với người donor hay không?

Đáp:

Phật giáo không chấp nhận sự kiện “có một linh hồn trường tồn bất biến” mà mỗi sinh vật đều đươc hình thành bởi hai nguyên tố là phần tâm thức và phần thể xác. Giáo lý của nhà Phật dạy rằng các loài sinh vật có tới 4 cách sanh sản, đó là:

– Thai sanh, là sanh sản bằng bào thai, như người và một số loài vật

– Noãn sanh, là sanh sản bằng trứng, như gà, vịt, chim, … vân vân.

– Thấp sanh, là sanh sản bằng sự ẩm ướt, như các loại côn trùng, mốc … vân vân…

– Hóa sanh, như một số loài sâu, thí dụ con tằm hóa ra con nhộng, rồi hóa ra con ngài mà bay đi, vân vân…

Tất cả những loài này đều không có ai đem linh hồn phân phát cho mầm sống, mà chính là Thần Thức đã hội nhập ngay vào sinh vật để sử dụng cái cơ thể vật chất mới được hình thành. Cơ thể vật chất đó sẽ là công cụ để phần Thức sử dụng trong suốt cuộc đời, cho đến khi cái chết xảy đến, thì Thức sẽ từ bỏ cái công cụ để — nay được gọi là Thần Thức — gá vào một phôi thai nào đó vừa mới thành hình, tùy theo nghiệp lực của dòng sinh tử và nhân duyên từ quá khứ đối với cặp cha mẹ đưa đẩy.

Giáo lý nhà Phật không nói đến chuyện cloning, vì vào thời đức Phật còn tại thế thì chuyện này chưa xảy ra. Nhưng chiếu theo pháp Tứ Y mà đức Phật đã dạy, có câu “Y nghĩa, bất y ngữ”, chúng ta có thể nương theo sự hiểu biết về Phật pháp mà suy luận. Như vậy, để trả lời câu hỏi này, chúng tôi có thể thưa như sau:

– Theo quan điểm của nhà Phật thì cloning thuộc về nhóm “thấp sanh”, vì phôi thai không được hình thành qua sự gần gũi của cha mẹ như là người bình thường thuộc dạng thai sanh. Sự sống của phôi thai là nhờ ở khoa học kỹ thuật, kết hợp hài hòa những điều kiện về ấm áp và ẩm ướt, cùng với sự kích thích khiến cho phôi thai phát triển, tương tự cách sinh trưởng của các nhóm côn trùng, mốc meo, vân…vân.

Cũng như ba loại sinh khác, phôi thai do cloning này cũng có Thần Thức của một dòng sinh mạng, thí dụ từ một sinh vật mới chết, nhập vào. Kể từ giây phút đó, Thần Thức là phần tâm linh của sinh vật mới được cloning này. Tất cả mọi hành vi tạo tác sau này của sinh vật đó, về mặt tâm thức, đều không liên quan gì tới người “gốc” (donor). Không có chuyện “xài chung một linh hồn với người donor”.

Tóm lại, trên đây là vấn đề thành tố của một sinh vật, đứng trên lập trường thuần lý, chiếu theo quan điểm của nhà Phật, gồm có hai phần : “phần vật chất là thể xác và phần phi vật chất là tâm linh”. Như vậy một sinh vật do cloning cũng sẽ sinh hoạt như một người bình thường, có phần vật chất và phần tâm linh riêng biệt, như bất cứ một người bình thường nào, cũng có tâm hồn, có sự suy tư riêng biệt.

Tuy nhiên, mục tiêu của đạo Phật là diệt khổ, nên trước mỗi vấn đề, người Phật tử đều cân nhắc kỹ càng, để tránh tạo nên nỗi đau khổ cho chúng sinh. Trước mắt, chúng ta thấy một người được sanh ra từ cloning dường như không có gì khác với người thường. Nhưng vì bản thân sự kiện cloning nó đã có những sự khác thường đối với đồng loại sinh trưởng bình thường, cho nên chúng ta cần tìm hiểu thêm về vấn đề tâm sinh lý và môi trường xã hội đối với sinh vật ra đời một cách khác thường là cloning, liệu sau này có vì thế mà sinh ra điều gì đáng tiếc cho kiếp người do cloning chăng.

Trong quá trình cloning, người ta lấy một nhân tố di truyền từ một tế bào của donor đem đặt vào một trứng đã được rút nhân tố di truyền ra. Nếu là sinh sản theo thường lệ thì sự kết hợp của hai nhân tố này trong cái trứng của người đàn bà sẽ quyết định sự giống hay khác nhau về hình thể của đứa bé đối với cả cha và mẹ hoặc dòng họ của bên nội và bên ngoại, theo di truyền. Nhưng khi cloning, nhân tố di truyền của người mẹ trong cái trứng đã được lấy ra, chỉ có độc nhất một nhân tố của donor được đặt vào trong trứng, nên phôi thai chỉ tăng trưởng từ một nhân tố di truyền gốc, vì thế sau này cơ thể vật chất của nó sẽ giống y hệt người donor.

Cơ thể trông thì giống hệt, nhưng sự hình thành đã không bình thường, chúng ta cũng chưa có đủ thời gian và dữ kiện để chứng minh rằng cơ thể đó sẽ phát triển bình thường. Trong khoảng thời gian gần một trăm năm của đời người, chưa thể biết sẽ có những biến chuyển nào xẩy tới cho kẻ ra đời do cloning. Đấy là nói riêng về vấn đề cơ thể vật chất.

Về mặt tinh thần, tuy con người đó có một Thần Thức mang theo nghiệp lực gá vào cơ thể để hoạt động, thì nghiệp quá khứ là của dòng nghiệp đó. Nhưng do sự ra đời bất thường, những va chạm trong đời sống do mặc cảm về sự bất thường này có thể xảy ra, sẽ gây nên đau khổ cho người đó và nếu như vì mặc cảm quá sâu sắc, hắn có thể gây nên những nhân ác mới, như những người vốn mang mặc cảm đã gây nên nhiều tội ác trong lịch sử của nhân loại, thí dụ Hitler, …vân vân…. Từ những điều ác mới gây ra do mặc cảm vì sự ra đời bất thường, dòng nghiệp lực của hắn sẽ trở thành xấu đi. Nếu chuyện đó xảy ra thì cũng là một điều đáng tiếc.

Ngoài ra, theo nhận xét của những nhà xã hội học, trẻ em mồ côi, hoặc xuất thân từ những gia đình đổ vỡ, thường dễ nảy sinh mặc cảm cô đơn. Từ mặc cảm, các em có thể phát sinh những phản ứng tiêu cực, dù trên thực tế, mọi người chung quanh đối xử với các em rất bình thường.

Qua suy nghĩ đó, chúng ta có thể dự đoán về đời sống tinh thần của một em bé cloning trong lòng xã hội. Thí dụ có một chuyện xảy ra trong lớp học, một em bé bình thường có thể phát biểu một câu bất thường, cả lớp không thấy có gì lạ, chỉ cho là em bé đó đang có chuyện gì không vui nên phản ứng thế chăng. Nhưng nếu là một em bé cloning, thì mọi người có thể phát sinh ngay một dấu hỏi trong đầu: “Liệu có phải vì nó là đứa bé cloning nên mới sinh ra chuyện này chăng?”.

Hoặc dù cho không ai tỏ thái độ gì, nhưng chỉ tình cờ thôi, một tia nhìn lơ đãng của bạn trong lớp cũng có thể khiến cho em bé cloning vốn đã có mặc cảm, phát sinh ra những tư tưởng tiêu cực. Chuyện kỳ thị chủng tộc, mầu da, vân vân, đã xảy ra và vì thế đã bùng nổ những cuộc đấu tranh dữ dội, đó là vì nạn nhân là một đám đông. Nhưng các em bé từ cloning mà bị kỳ thị, hoặc có cảm giác bị kỳ thị, thì nỗi đau khổ và phản ứng chống đối trong cô đơn sẽ có thể là rất tệ hại và đáng thương biết mấy. Những điều này khi xảy ra sẽ thành nghiệp nhân mới tạo trong kiếp này của dòng sinh mệnh, chứ không phải là nghiệp nhân mà Thần Thức khi gá vào sinh vật cloning đã mang theo từ kiếp trước. Như thế là chúng ta đã góp phần tạo nên nỗi thống khổ cho chúng sinh.

Cloning con người là một vấn đề quá mới mẻ nên chúng ta cũng chưa biết rằng khi các em bé đó lớn lên, những vấn đề khác về cơ thể có diễn tiến bình thường như một người do thai sanh không. Nếu thí dụ qua một vài thế hệ cloning, cơ thể con người vì đã được cấu tạo một cách bất thường, có thể thiếu hoặc dư chất gì đó, mà biến đổi như những trái cây được tháp giống, tuy trông vẫn giống trái nguyên thủy, nhưng hình thể to lớn bội phần.

Côn trùng là loài thấp sinh vẫn bình thường sinh trưởng từ thời cổ đại là vì chúng “thấp sanh” một cách thiên nhiên. Cloning là thấp sanh nhân tạo, sự kiện khác nhau này có nảy sinh vấn đề gì gây nên tai hại là điều các nhà khoa học chưa thể bảo đảm một cách chắc chắn.Vấn đề hiện nay đang làm nhức nhối lương tâm của loài người là nạn nghèo khổ, thất học, thiếu ăn, thiếu nước, chiến tranh, vân vân, … và nhất là nạn nhân mãn, phá thai, tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là tại Phi Châu. Nếu thay vì nghiên cứu để sinh sản ra người do cloning, hãy dùng khả năng khoa học để nghiên cứu phương cách giải quyết những vấn nạn kể trên, khiến cho toàn thể nhân loại đều được sống một cuộc đời đáng sống, có lẽ còn là việc cấp thiết hơn nhiều.

Có một mẩu tin của đài BBC trong tháng 9 năm 2005, như sau:

“Ngồi trong trung tâm nhận đồ ăn của Mauritania, Phi Châu, em bé Mohamed Nour’s – một tuổi – có cái bụng chướng to nhưng không phải là vì chứa thức ăn và xương khớp cổ tay của em thì nhô ra coi còn lớn hơn cả cánh tay em nữa. Ấy vậy mà mẹ em vẫn quả quyết một cách hãnh diện: “Tôi vẫn cho cháu ăn uống đầy đủ, tôi ăn gì thì nó ăn nấy, mỗi ngày một lần. Mới hôm qua chúng tôi đã ăn cháo yến mạch, còn ngày hôm trước và kể cả 3 ngày hôm trước nữa thì chúng tôi ăn cháo bột mì”.

Em bé Mohamed Nour’s này cũng chưa phải là những người dân khốn khổ ở khu vực Đông Nam của Mauritania, phần đất đã lãnh nhận trận mất mùa thê thảm, giết chết hàng ngàn người ở Niger.

Suy dinh dưỡng triền miên là vấn đề lớn nhất ở những vùng như địa phương này. Nó không thuộc loại đói đến chết lăn ngay ra, nhưng nó ẩn tàng trong những bữa ăn thiếu thốn. Các cháu thiếu hầu như tất cả các loại sinh tố và khoáng chất cần thiết để một đứa trẻ có thể tăng trưởng cơ thể và tinh thần một cách bình thường. Tỷ lệ tử vong của nạn suy dinh dưỡng triền miên là cứ 1000 em thì có 109 em bị chết trong tuổi ấu niên, trong khi ở Tây Ban Nha, trong số 1000 em, chỉ có 3 em chết non. Các bà mẹ không nhìn thấy sự nguy hiểm đang rình rập các cháu bé suy dinh dưỡng, vì sự nguy hiểm cứ lùi lũi tiến đến một cách yên lặng. Dù có thấy con mình gầy rạc, nhưng nó không ốm lăn ra, thế là họ yên chí rằng chúng khỏe mạnh rồi. Nhưng thật ra thì đứa bé đang mất dần sức sống và từ từ lăn xuống huyệt mộ.

Trong một thế giới mà sự ngu dốt, nghèo khổ, đói khát còn tràn ngập, có lẽ Phật tử chúng ta cũng thấy cần dành thì giờ, tiền bạc và những bộ óc thông minh để tìm cách cải tiến về nhiều mặt khác, ngõ hầu làm giảm bớt nghèo khổ, tăng trưởng mức sống thì như thế có lẽ lại phục vụ hữu hiệu cho loài người hơn là chuyện cloning.

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Mời click vào link xem video trình bày bài Cloning và Phật Giáo:

http://www.vietfreefun.com/forum/showthread.php?194553-Cloning-v%C3%A0-Ph%E1%BA%ADt-Gi%C3%A1o

.

Thiền Đốn Ngộ – Công Án

Quan điểm của Daisetz Suzuki về Công Án
Hà Minh Triết 

Ý kiến phản hồi bài viết của Lý Việt Dũng
http://www.giacngo.vn/tuvan/2008/03/26/56D619/

Cuốn “Essays in Zen Buddhism”của soạn giả Daisetz Teitaro Suzuki, mà dịch giả Trúc Thiên và thượng tọa Tuệ Sỹ dịch là Thiền Luận, thượng tọa Thích Nguyên Tạng dịch là “Khái luận Phật giáo Thiền”, — (hoặc nếu muốn, cũng có thể dịch là “Những bài tiểu luận về Thiền Phật giáo”) –, là bộ sách có nội dung gồm nhiều bài tiểu luận, không chỉ riêng viết về những đề tài trực tiếp liên hệ đến Thiền như thiền Công Án, thiền Chỉ Quán, mà còn đề cập đến cả những tài liệu gián tiếp liên hệ đến Thiền và Chứng Ngộ, thí dụ các kinh liễu nghĩa như kinh Lăng Già, kinh Đại Bát Nhã, kinh Hoa Nghiêm, Quán Kinh, và các tông phái như tông Hoa Nghiêm, tông Thiên Thai, tông Tịnh Độ, … vân vân….và cũng có lược qua các đề tài về các môn phái Thiền khác tại Nhật như Thiền trong Kiếm thuật, trong Võ đạo, trong Trà đạo, … vân vân….

Trong số rất nhiều đề tài khác nhau đó, nơi Thiền Luận bộ Trung, Tiểu Luận 1, Phần 1 với tên “Kinh nghiệm siêu việt tri kiến”, soạn giả Suzuki và dịch giả Tuệ Sỹ đã dùng tới trên 200 trang sách để trình bày về một phương tiện Chứng Ngộ là tu tập Công Án, trong đó soạn giả Suzuki nói rất rõ về tầm quan trọng của Nghi Tình và chủ trương không thể dùng tâm ý thức, suy tư tìm hiểu, kiến giải, để tu trong pháp môn khán Công Án, Thọai Đầu.

Đọc đến đây, có thể ai đó đã lắc đầu nhăn mặt rằng: “Thiền sao mà “luận” được, sai rồi, sai rồi”. Nếu quả có người nghĩ như thế thì tôi mong rằng chúng ta nên nhìn vào thực tế, đừng để những vướng mắc của thành kiến che mất cánh cửa Văn, Tư, Tu, vì chẳng riêng gì “Thiền” có thể “luận”, mà Đại sư Tăng Triệu còn “luận” luôn cả đến “Bát Nhã Vô Tri”, Niết Bàn Vô Danh” (Bát Nhã Vô Tri LuậnNiết Bàn Vô Danh Luận, trong bộ Triệu Luận, Đại Chánh tân tu Đại Tạng Kinh, mục số 1858, thiền sư Hám Sơn lược giải, thiền sư Thích Duy Lực dịch, Từ Ân Thiền Đường ấn hành).

Ngoài ra, bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna) còn “luận” luôn cả đến Đại Bát Nhã (Mahā Prajñā Pāramitā), tức là “Trí Tuệ Bát-nhã Ba-la-mật”, bằng bộ “Đại Trí Độ Luận”. Đến Bát Nhã Vô Tri, Niết bàn Vô Danh, Trí Tuệ Bát Nhã, Tri Kiến Phật còn “luận” được thì chẳng nên phê phán việc soạn giả Suzuki viết “Essays in Zen Buddhism” và các dịch giả Trúc Thiên và Tuệ Sỹ đã dịch là Thiền Luận.

Tóm lại, nếu muốn giải thích cho người khác thấu triệt được vấn đề gì thì phải “luận giải”, do đó, trong Tam Tạng Kinh Điển của nhà Phật gồm “Kinh, Luật, Luận” mới có tạng thứ ba tên là Tạng Luận.

Nay xin trở về đề tài chính. Mở đầu chương “Tu Tập Công Án: Phương Tiện Chứng Ngộ”, soạn giả Suzuki nói về “Thánh Trí Tự Chứng” (Ngộ), và để giải thích thế nào là “Tự Chứng”, ông đã trích dẫn kinh Hoa Nghiêm:

“Thiện Tài Đồng Tử hỏi: Môn giải thoát này làm sao để hiện tiền? Làm sao để chứng đắc?

“Diệu Nguyệt trưởng giả đáp: Một người thân chứng hiện tiền môn giải thoát này khi nào người ấy phát khởi tâm Bát nhã Ba La mật (Prajna-paramita) và cực kỳ tương thuận; rồi thì người ấy được chứng nhập trong tất cả những gì mà mình thấy và thấu hiểu.

“Thiện Tài Đồng Tử lại thưa: Có phải do nghe những ngôn thuyết và chương cú về Bát-nhã Ba-la-mật mà được hiện chứng?”

“Diệu Nguyệt đáp: Không phải. Tại sao thế? Bởi vì Bát-nhã Ba-la-mật thấy suốt thể tánh chân thật của các pháp mà hiện chứng vậy.

“Thiện Tài thưa: Há không phải do nghe mà có tư duy và do tư duy và biện luận mà được thấy Chân Như là gì? và há đây không phải là tự chứng ngộ?

“Diệu Nguyệt đáp: Không phải vậy. Không hề do nghe và tư duy mà được tự chứng ngộ. Này Thiện nam tử, đối với nghĩa này ta phải lấy một thí dụ, ngươi hãy lắng nghe!

“Thí dụ như trong một sa mạc mênh mông không có suối và giếng, vào mùa xuân hay mùa hạ khi trời nóng, có một người khách từ Tây hướng về Đông mà đi, gặp một gã đàn ông từ phương Đông đến, liền hỏi gã rằng: “Tôi nay nóng và khát nước ghê gớm lắm; xin chỉ cho tôi nơi nào có suối trong và bóng cây mát mẻ để tôi có thể uống nước, tắm mát, nghỉ ngơi và hoàn toàn tươi tỉnh lại?”

“Gã đàn ông ấy theo lời yêu cầu, liền chỉ dẫn cặn kẽ cho người khách rằng: “Cứ tiếp tục đi về hướng Đông, rồi sẽ có con đường chia làm hai nẻo, nẻo phải và nẻo trái. Bạn nên hãy theo nẻo bên phải và gắng sức mà đi tới chắc chắc bạn sẽ đến một nơi có suối trong và bóng mát.

“Này thiện nam tử, bây giờ ngươi có nghĩ rằng người khách nóng khát, từ Tây đến, khi nghe nói đến suối mát và những bóng cây, liền tư duy về việc đi tới đó càng nhanh càng tốt, người ấy có thể trừ được cơn khát và được mát mẻ chăng?”

“Thiện Tài đáp: “Dạ không; người ấy không thể làm thế được; bởi vì người ấy chỉ trừ được cơn nóng khát và được mát mẻ khi nào theo lời chỉ dẫn của kẻ kia mà đi ngay đến dòng suối rồi uống và tắm ở đó.

“Diệu Nguyệt: “Này thiện nam tử, đối với Bồ tát cũng vậy không phải chỉ do nghe, tư duy và huệ giải mà có thể chứng nhập hết thảy pháp môn. Này thiện nam tử, sa mạc là chỉ cho sinh tử; người khách đi từ Tây chỉ cho các loài hữu tình; nóng bức là tất cả những sự tướng mê hoặc; khát tức là tham và ái; gã đàn ông từ Đông đến và biết rõ đường lối là Phật hay Bồ tát đã an trụ trong nhất thiết trí, các ngài đã thâm nhập Chân Tánh của các pháp và Thật Nghĩa bình đẳng; “giải trừ khát cháy và thoát khỏi nóng bức nhờ uống dòng suối mát” là chỉ cho sự Chứng Ngộ Chân Lý bởi chính mình vậy.”

(Thiền Luận bộ Trung, trang 22)

Để nhấn mạnh và làm sáng tỏ sự Chứng Ngộ vốn không liên quan đến ngôn ngữ, văn tự, ông Suzuki tiếp:

…”…Từ trích dẫn này chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng môn giải thoát Bát- nhã ba-la-mật phải được chứng ngộ bằng kinh nghiệm cá biệt của mình; còn như chỉ có nghe và học hỏi thôi thì chúng ta không cách gì thâm nhập vào giữa lòng chân tánh của thực tại. Người ta có thể hỏi, tại sao không thể vươn tới chân lý tự chứng bằng tri kiến? Câu hỏi này được trả lời ở một đoạn khác trong kinh Hoa nghiêm.

“Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác cũng như cho chính mình; hoàn toàn không thiên lệch với ý tưởng đây kia, giống như mọi vật đều sinh trưởng từ lòng đất. Chính Thực Tại hay Pháp Tánh, không phải hữu tướng, cũng không phải vô tướng; thể của nó như hư không, vượt ngoài tri kiến và liễu giải; pháp ấy vi diệu, khó lấy văn tự mà diễn nói.

“Tại sao thế? Bởi vì nó siêu việt hết thảy cảnh giới của văn tự; siêu việt hết thảy cảnh giới của ngôn thuyết; siêu việt hết thảy các cảnh giới ngữ nghiệp vận hành; siêu việt hết thảy các cảnh giới của hí luận, phân biệt tư lương; siêu việt hết thảy các cảnh giới của tầm tư và tính toán, siêu việt cảnh giới sở tư của tất cả chúng sinh ngu muội; siêu việt cảnh giới của hết thảy phiền não tương ưng ma sự; siêu việt hết thảy cảnh giới của tâm thức…”…

(Trang 24, sđd)

Với quan niệm phải bác bỏ tri kiến trong sách vở khi tham thiền, soạn giả Suzuki viết:

“Bài thuyết pháp sau đây của Hoàng Long Tử Tâm Ngộ Tân Thiền sư (1044-1145) cho thấy không gì diễn ra trong lòng của một kẻ học Thiền chân thật :

“Này chư Thượng tọa, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Thân này không nhắm đời nay độ, còn đợi đời nào độ thân này? Nay còn sống đó, các ngài hãy tham thiền đi, tham thiền là để buông bỏ. Buông bỏ cái gì? Buông bỏ tứ đại, ngũ uẩn, buông bỏ bao nhiêu nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến nay; hãy nhìn xuống dưới gót chân của mình mà suy xét cho thấu đáo để thấy đạo lý ấy là gì? Suy tới suy lui hốt nhiên tâm hoa bừng nở, chiếu khắp mười phương. Sự chứng ngộ thì không thể trao truyền, dù chính các ngài biết rõ nó là cái gì ?

“Đây là lúc các ngài có thể biến đất lớn thành vàng ròng, quậy sông dài thành biển sữa. Há không sướng khoái bình sinh sao! Vậy thì đừng phí thì giờ niệm ngôn niệm ngữ mà hỏi đạo hỏi thiền nơi sách vở; bởi vì đạo thiền không ở nơi sách vở. Dù cho thuộc lòng một bộ Đại tạng cũng như Bách gia chư tử, chẳng qua là những lời rỗi rãi, khi chết chẳng dùng được gì”.

(Trang 28, sđd)

Để sáng tỏ quan điểm về bác bỏ mọi sự tìm tòi trên bình diện tri kiến, ngưng lại thói quen ”tâm viên ý mã”, ông Suzuki nhấn mạnh:

“Kẻ thù tai hại nhất của kinh nghiệm Thiền là trí năng với bản chất và tác dụng là phân biệt chủ khách. Do đó người ta phải cắt bỏ bớt trí năng phân biệt nếu muốn khai triển ý thức Thiền, và công án được nêu cao để thực hiện mục đích này.

Khi khảo sát chúng ta nhận thấy ngay rằng giải thích của trí năng không có tác dụng gì hết trong công án. Lưỡi dao trí năng không đủ sắc bén để chẻ đôi công án hầu nhìn thấy nội dung của nó, bởi vì một công án không phải là một mệnh đề luận lý mà là sự diễn đạt của một tâm trạng nào đó kết quả từ pháp môn Thiền. Chẳng hạn, có quan hệ luận lý nào giữa “Phật” và “ba cân gai”? hay giữa “Phật tính” và “vô” hay giữa “mật chỉ của Bồ-đề-đạt-ma” và “cây bách”?

Trong một tác phẩm Thiền mang danh là Bích Nham Lục, Viên Ngộ đưa ra nhưng ghi nhận sau đây về “ba cân gai” đồng thời cho thấy công án được giải thích ra sao bởi các môn đệ « tà Thiền » không đủ sức nắm vững Thiền.

“Có một số người thời bấy giờ không lãnh hội chân chính công án này; đấy là vì không có kẽ hở nào cho trí năng của họ cắn răng. Bởi vậy ta nói nó rất ư nhạt nhẽo vô vị. Cổ nhân đã có nhiều câu trả lời cho câu hỏi: “Phật là gì?”. Vị thì nói: “Ngài ngồi trong Phật điện”. Vị thì bảo: “Một người có 32 tướng tốt”. Vị khác: “Cây roi bằng rễ tre”. Nhưng, không ai hay hơn Động Sơn: “Ba cân gai”; bất chấp cái phi lý của nó; cắt đứt mọi đường lối biện bác.

(Trang 136 sđd)

Câu trích sau đây càng cho thấy Suzuki quyết liệt bác bỏ sự vận hành của trí năng trong Công Án:

“Đứng về mặt thủ pháp, công án được nêu ra cho kẻ sơ cơ là để “hủy hoại gốc rễ của sự sống”, “giết chết đầu óc so đo đốn ngã tâm trí hiện hành tử vô thủy”, v.v… Sự diễn tả như vậy có thể dồn người ta vào tử lộ, nhưng đích ý là vượt lên những giới hạn của trí năng, và chỉ có thể vượt qua những giới hạn này khi nào người ta dốc hết toàn lực, tận dụng những năng lực tâm thần vốn có…”…

(Trang 137 sđd)

Trong tiểu mục “Những chỉ thị thực tiễn đối với tu tập công án”, soạn giả Suzuki viết:

”Một Thiền sư trên núi Hoàng Bá, khoảng đầu nhà Tống, chỉ thị về lối học Thiền như sau:

“Này chư huynh đệ! Có thể chư vị thích nói về Thiền, về Đạo chửi Phật, chửi Tổ nhưng đến khi tính lại, các thứ Thiền đầu môi chót lưỡi của chư vị nào có ích chi. Như thế chỉ làm mờ mắt kẻ khác, nhưng nay chư vị sẽ thấy rằng mình tự làm mờ mắt mình. Này chư huynh đệ! Lúc thân thể còn khang kiện hãy cố mà hiểu biết chân chính Thiền là gì. Quả tình, cái ổ khóa đó chẳng phải khó mở xoay vào cho lắm, mà chỉ vì chư vị không quyết lòng sống chết với công phu; rồi khi không biết làm sao để chứng, chư vị lại bảo “Khó lắm, khó lắm, sức ta không làm nổi”. Thật là vô lý! Nếu chư vị quả thật là những kẻ trượng phu, chư vị sẽ thấy ra ý nghĩa công án của mình. Một thầy Tăng hỏi Triệu Châu: con chó có Phật tính không?” Châu đáp “Vô”. Rồi, bây giờ chư vị hãy chuyên tâm vào chữ VÔ này cả ngày lẫn đêm; dù đi, đứng hay nằm, ngồi suốt trong mười hai thời; dù cả khi mặc áo, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện, hãy chú tâm nhất định nơi công án. Hãy tận lực ghi nhớ nó mãi trong lòng. Ngày qua tháng lại, cho tới khi tâm của chư vị được nhồi lại thành một khối, thì hoa lòng bỗng nhiên bừng nở – tỏ ngộ cái tâm cơ của Phật và Tổ. Bấy giờ, kể từ nay, khắp trong thiên hạ chẳng còn một lão Thiền sư nào mà mắt chư vị được nữa”

Nhấn mạnh điều sai lầm khi dùng tâm Ý thức nghiên cứu suy tư, một hình thức ”giải công án”, soạn giả Suzuki viết:

”Trong trích dẫn sau đây rút ra từ cuốn Đại Huệ Phổ Thuyết gồm các bài pháp của thiền sư Đại Huệ, ngài còn nêu lên một công án khác cho vị tăng thị giả của mình là Tịnh Quang:

“Pháp không do kiến văn giác tri mà thấu rõ (ngộ). Nếu pháp kiến văn giác tri mà thấu rõ, đấy chỉ là kiến văn giác tri mà thôi; hoàn toàn không phải là pháp. Bởi vì pháp không ở nơi những cái mà người ta nghe từ kẻ khác hay học tập bằng thế trí. Bây giờ, người hãy bỏ đi những gì thấy, nghe và suy nghĩ, mà thấy nhưng gì trong chính ngươi. Chỉ có chân không, vô vật, không thể bắt nắm được, không thể nghĩ tưởng đến được. Tại sao? Bởi vì đó là nơi siêu việt giác quan. Nếu giác quan mà với tới nơi này được, thì đó là cái có thể nghĩ tưởng, có thể bám víu; và như vậy, nó nằm trong vòng sống chết.

“Điều cốt yếu là khép chặt các giác quan, và biến tâm thức thành như một khúc cây. Khi khúc cây này đột nhiên trỗi dậy và khua vang, ấy là ngươi như sư tử cất tiếng rống tự do, tự tại, không ai quấy phá, hay như một con voi vượt qua sông chẳng e dè dòng nước chảy xiết. Đấy là lúc không còn dao động, không còn tạo tác…..”….

(Trang 142 sđd)

Soạn giả Suzuki ca ngợi:

”Đại Huệ không mệt mỏi nhắc nhở môn đệ của mình sự quan trọng của chứng ngộ siêu việt ngôn ngữ biện biệt, vượt ngoài giới hạn của tâm hành…” …

”Nơi khác, Đại Huệ nói: “Hãy kiên trì công án trong suốt cả bình sinh. Nếu một niệm khởi lên, đừng cố ý dẹp xuống, mà cứ cố giữ công án hiện tiền với tâm. Dù khi đi khi đứng hay nằm ngồi, chú tâm không gián đoạn. Đến khi bắt đầu thấy nó không còn hương vị gì hết, ấy là lúc thời cơ quyết định đang đến; đừng để nó vuột mất. Đến khi một vật đột nhiên chớp lên trong tâm ngươi, ánh sáng của nó sẽ sáng rực cả vũ trụ, và ngươi sẽ thấy rằng quốc độ của chư Phật hoàn toàn hiện lên trên đầu một sợi tóc, và bánh xe Chánh pháp vĩ đại đang quay trong một hạt bụi…”…

(Trang 146 sđd)

Ông Suzuki cũng dẫn chứng lời thiền sư Không Cốc Long khuyên các sư tăng:

“Cái vô của Triệu Châu, trước khi các thầy thấu triệt nó, thì nó như một hòn núi bạc hay như một bức tường sắt (đứng chắn lối của các thầy). Nhưng khi các thầy tiến tới với cái vô ngày qua ngày, cố bước vào trong lòng của nó, đừng để một khoảnh khắc dừng nghỉ, thời cơ tối thượng nhất định sẽ đến, như một cơn lụt tràn ngập; và rồi các thầy sẽ thấy rằng bức tường sắt hay hòn núi bạc chẳng chút gì đáng sợ. Điều quan trọng là đừng tin gì ở cái học, cái hiểu, mà hãy để hết tâm trí vào việc giải quyết vấn đề sanh tử.

Đừng phí thì giờ ngồi suy nghĩ về cái “vô”, hãy như một tên si ngốc không khác, đừng cố giải quyết sai lầm bằng tư duy biện biệt. Hãy kiên quyết để hết tâm chí mà thấu cái vô. Rồi đột nhiên, khi các người buông tay xuống, toàn thể tâm thức hoàn toàn đảo ngược và kể từ đây các người nhận thấy vô cùng minh bạch nơi chốn tận cùng của nó …”…

(Trang 147 sđd)

Ông kết thúc bằng bài pháp của thiền sư Bạch Ẩn với lời lẽ như sau:

“Tôi kết luận vắn tắt chương này với một đoạn trích từ tác phẩm của Bạch Ẩn Huệ Hạc, cha đẻ của phái Thiền Lâm Tế Nhật Bản ngày nay. Trong trích dẫn này chúng ta sẽ thấy tâm lý của Thiền tiến hành ra sao vốn chẳng có thay đổi nhiều qua hơn một nghìn năm, từ thời Huệ Năng và các môn đệ Trung Hoa của ngài:

“Nếu các ngươi muốn đạt được đạo lý thanh tịnh của vô ngã, thì hãy cứ một lần buông tay rơi trên vực thẳm, rồi các ngươi sẽ bừng tỉnh trỗi dậy trở lại và thành tựu bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh. Thế nào là buông tay xuống vực thẳm? Giả sử có người dạo bước giữa những hòn núi xa xôi, nơi chưa từng có ai lưu lạc đến. Người ấy đến bên bờ một vực thẳm không đáy, đá lởm chởm, rong rêu phủ kín, vô cùng trơn tuột, không biết đặt chân đâu cho vững; y không thể đi tới, không thể bước lui, cái chết đối diện. Nguồn hy vọng độc nhất là giữ lấy sợi dây sẵn trong tay; sinh mệnh của y gởi vào sợi dây này. Nếu y bất cẩn buông tay, thân thể y sẽ lao thẳng xuống vực, xương thịt sẽ tan ra từng mảnh.

“Người học Thiền cũng vậy. Khi y bám chặt công án trong tay, rồi y sẽ thấy rằng mình đã bước tới cực độ khẩn trương của tinh thần và đang ở trong bước đường cùng. Như một người bị treo lơ lửng trên vực thẳm, chẳng còn biết phải làm gì. Trừ những cảm giác bồn chồn bất an, từng lúc và từng lúc, y giống như một người đã chết. Đột nhiên y thấy thân và tâm của mình bị quét ra khỏi cuộc sống cùng lúc với công án. Đấy gọi là “buông tay”; khi các ngươi tỉnh khỏi cơn si ngốc và lấy lại hơi thở, giống khi uống nước chỉ mình biết là lạnh. Đó là một niềm vui khôn tả”.

(Trang 152 sđd)

Về tầm quan trọng của Nghi Tình trong phương pháp tu khán Công Án, Thoại Đầu, soạn giả Suzuki viết:

– Hãy nhận xét những câu nói của thiền sư Đại Huệ trong Đại Huệ Phổ Thuyết như:

…“… Nhặt ra cái điểm suốt đời nghi ngờ và đặt nó ngay trước mặt”. Đó là Thánh hay phàm? Hữu hay vô? Hãy đẩy câu hỏi đó đến cùng. Đừng sợ rơi vào cái không: hãy tìm xem cái gì nuôi dưỡng nỗi sợ hãi này. Đó là cái không, hay không phải?” …

“Đại Huệ không bao giờ khuyên chúng ta chỉ việc đề khởi công án hiện tiền; trái lại, ngài bảo chúng ta hãy đặt nó vào ngay trong tâm bằng tất cả sức mạnh của nghi tình. Một khi công án được chỉ trì bởi một tinh thần như thế, ngài nói, nó “giống như một ngọn lửa cháy lớn đốt cháy tất cả những con sâu hí luận đang xăm tới.” Nếu không có sự phấn khích nghi tình mang màu sắc triết lý này, chẳng công án nào có thể đứng vững trước tâm thức. Vì vậy, lời nói thông thường của các Thiền sư là cho rằng: “Trong sự tham thiền, điều trọng yếu nhất là giữ vững nghi tình; nghi tình càng mạnh, ngộ càng lớn, quả thực, chẳng bao giờ có ngộ mà không có nghi, vậy, hãy bắt đầu bằng cách dọ hỏi vào ý nghĩa của công án”.

(Trang 182 sđd)

Về từ ngữ “nghi tình”, nơi Thiền Luận bộ Thượng, trang 413, dịch giả Trúc Thiên đã định nghĩa như sau:

“Đại nghi, hoặc nghi tình, nghi niệm, nghi đoàn đây không liên hệ gì đến cái doute philosophique của Descartes. Thiền tông đặt nghi tình làm một trong ba điều kiện thiết yếu để tham công án, đó là đại ý chí, đại tin tâm, đại nghi tình. Nghi tình là nguồn kích động lực thúc đẩy hành giả từng giây từng phút nhảy sấn vào hư vô, dầu đó là địa ngục cũng mặc. Nên thiền sư Huệ Khai, trong Vô môn quan, nói: “Hãy đem hết ba ngàn sáu trăm khớp xương, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông đúc thành khối nghi tình công phá vào chữ “Vô” ấy của Triệu Châu. Ngươi hãy như người nuốt phải viên sắt nóng, trạo trực ói tới ói lui vẫn không mửa ra được, có thế mới gội sạch hết kiến thức chồng chất bấy lâu. để rồi nổ bùng lên như trời long đất lở. Chừng như ngươi vừa đoạt được cây đao thanh long của Quan Công cầm tay qua ải gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, được tự tại ngay tại đầu bờ sanh tử, dạo nỗi vui du hí qua sáu nẻo luân hồi, bốn đường sanh hóa”.

Để nhấn mạnh thêm tầm tối quan trọng của “Nghi Tình” trong Công Án, ông Suzuki dẫn chứng một loạt những lời khai thị của các thiền sư danh tiếng:

“Theo Cao Phong Nguyên Diệu (1238-1295) chúng ta được biết như vầy :

“Công án tôi thường đặt cho các môn nhân là: “Vạn pháp quy Nhất, Nhất quy hà xứ?” Tôi khuyên họ hãy tham cứu câu này.

Tham cứu câu ấy tức là đánh thức một mối nghi tình lớn đối với ý nghĩa cứu cánh của công án. Vạn pháp thiên sai vạn biệt được quy về Một, nhưng rồi Một trở về đâu? Tôi bảo họ, hãy đem hết sức mạnh bình sinh mà đeo mối nghi tình này, đừng lúc nào xao lãng. Dầu đi, đứng, nằm, ngồi hay làm các công việc, đừng để thời giờ luống trôi qua. Rồi ra cái Một trở về đâu?

Hãy cố mà tìm một câu trả lời chính xác cho câu hỏi này. Đừng buông trôi mình trong cái vô sự; đừng luyện tập tưởng tượng phiêu du, mà hãy cố thực hiện cho được cái trạng thái toàn nhất viên mãn bằng cách đẩy nghi tình lướt tới, bền bỉ và không hở. Rồi các ngươi sẽ thấy mình như một kẻ bịnh ngặt, chẳng còn muốn ăn uống gì nữa. Lại như một thằng khờ, không hiểu cái gì ra cái gì hết. Khi công phu đến đây, giờ là lúc tâm hoa của các người bừng nở.

Cổ Âm Tịnh Cầm thiền sư, khoảng cuối thế kỷ XV, nói về sự tu tập công án như vầy:

“Công phu có thể được thực hành tốt đẹp nhất là ở nơi không có tiếng động và tạp loạn: hãy dứt bỏ tất cả nhưng điều kiện quấy nhiễu, hãy dừng lại suy tư và nghĩ tưởng, để hết tâm trí vào việc tiến hành công án, đừng bao giờ buông thả nó ra khỏi trung tâm của thức, dù khi đi đứng hay nằm ngồi vẫn vậy. Đừng bao giờ quan tâm đến việc mình đang ở trong cảnh ngộ nào, dù khi xứng lòng hay trái ý, mà luôn luôn hãy cố giữ lấy công án trong lòng, phản quan tự chiếu, và tự hỏi ai là kẻ đang theo đuổi công án chẳng biết mệt thế, và tự hỏi như vậy không ngớt.

“Cứ tiến hành như thế, hết sức là hăng hái, nghi chính kẻ đang nghi, chắc chắn sẽ đến lúc không còn nghi vào đâu được nữa, tuồng như các ngươi đã đi đến chính tận nguồn của dòng suối và thấy mình đang bị những ngọn núi vây hãm chung quanh. Đây là lúc gốc cây cùng với sắn bìm chằng chịt gãy đổ, tức là khi sự phân biệt chủ khách hoàn toàn bị xáo trộn, khi kẻ bị nghi và cái bị nghi hòa hợp thành một khối duy nhất. Một khi thức tỉnh tự sự hợp nhất này, cái ngộ lớn hiện đến, mang sự thanh bình cho nghi tình và tham cứu của các ngươi”.

Thiên kỳ Thụy hòa thượng thị chúng:

“Hãy gột sạch khỏi tâm tất cả khôn ngoan lừa lọc, dứt mình ra khỏi tham sân do chấp ngã, và đừng để những mối nghĩ phân hai quấy phá, để cho tâm thức được lau chùi sạch sẽ. Khi đã thanh lọc được như vậy rồi, hãy đề khởi công án trước tâm: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?”

“Hãy nghiền ngẫm vấn đề này từ thủy chí chung hoặc bằng nhiều nghi vấn, hoặc đơn độc một suy nghĩ, hoặc chỉ nghiền ngẫm cái Một ở nơi đâu. Bất cứ bằng cách nào cứ để cho hết thảy đầu mối của các câu hỏi ghi đậm trên ý thức của các ngươi khiến cho nó trở thành cái độc nhất, là cái đích chú tâm. Nếu các ngươi để phân biệt lý luật xen vào chuỗi dây liên tục bền bỉ của những nghi tình, kết quả sẽ làm sụp đổ hết cả công trình tu tập.

“Một khi các người chẳng được công án trước tâm, chẳng có cơ duyên nào để chứng ngộ hết. Muốn chứng ngộ mà không có công án, chẳng khác nào nấu cát mà mong thành cơm.

“Cái cốt yếu bậc nhất là khơi dậy cái đại nghi và gắng thấy rằng rồi cái Một quy về đâu. Lúc nghi tình được giữ linh hoạt liên tục khiến cho những giải đãi, hôn trầm, tán loạn không còn cơ hội móng khởi; không cần tìm kiếm ráo riết, rồi thời cơ cũng sẽ đến, đây là lúc tâm hoàn toàn nhập định. Thế là dù đi hay đứng, nằm hay ngồi mà không phải để ý hẳn vào những việc đang làm ấy, cũng không hay biết mình đang ở đâu, Đông hay Tây, Nam hay Bắc; quên luôn cả lục tình; ngày đêm như nhau cả. Nhưng đây chỉ mới nửa đường của ngộ, nhất định chưa phải ngộ hoàn toàn. Các người cần phải nỗ lực kỳ cùng và quyết liệt để xuyên qua đây, một trạng thái siêu thoát nơi đó hư không sẽ bị đập vỡ thành từng mảnh và vạn hữu đều được quy về cái bình đẳng toàn diện. Đấy lại như mặt trời ló dạng khỏi mây mù, thì các pháp thế gian hay xuất thế gian đều hiện ra rõ rệt”.

Sở Sơn Thiệu Kỳ Thiền Sư:

“Người sơ cơ cần nhất là phải có một vật để mà nắm vào Thiền; và vì thế họ được dạy cho pháp môn niệm Phật. Phật tức Tâm. Tâm tức Phật. Tâm và Phật từ đâu mà có? Có từ tâm. Tâm ấy không phải là tâm, không phải Phật, không phải vật. Vậy, là cái gì?

“Muốn thấy ra, hãy vứt bỏ đi tất cả những chữ đã tích chứa do học tập, tri thức, kiến giải; hãy chỉ hoàn toàn chuyên chú vào một câu hỏi: “Ai đang niệm Phật?” Hãy để cho nghi tình này nghi đến cực độ; đừng say sưa theo những nghĩ tưởng mê lầm; đừng để cho những ý tưởng phân biệt cùng khởi lên. Một khi công phu bền bỉ, liên tục không gián đoạn, thì Thiền định của các người tất nhiên sẽ được thuần thục, và nghi tình của các ngươi nhất định bùng vỡ dữ dội. Rồi các ngươi sẽ thấy rằng Niết bàn (Nirvana) và sinh tử, cõi tịnh độ và cõi uế trược, chỉ là hí luận, và ngay từ đầu chẳng cần gì giải thích hay bình chú, và thêm nữa, Tâm không thuộc cảnh giới tâm ý thức, do đó là BẤT KHẢ ĐẮC.”

(Trang 186, sđd)

Soạn giả Suzuki giải thích thêm:

“Sự phát khởi của lối thực tập công án hoàn toàn là một sự tăng trưởng tự nhiên trong lịch sử của Thiền. Muốn thế, nhiệm vụ của một công án đầu phải là cốt tạo ra, gần như giả trang, cùng một trạng thái ý thức như đã được kinh nghiệm bởi các Thiền sư xưa một cách ngẫu nhiên. Đấy là phương tiện đẩy nghi tình vào một điểm tập trung hay “đại nghi”. Nơi công án, không có đầu mối hợp lý để tựa vào bằng trí năng và biện luận…

(Trang 194, sđd)

Một trong những bức thơ, đề cập đến các phước báo của phép Niệm Phật và công án, Bạch Ẩn viết:

“Trong việc học (Thiền), cái hệ trọng nhất là cường độ mãnh liệt của nghi tâm. Vì vậy, người ta nói Nghi mạnh thì Ngộ lớn, và có một nghi tâm khá mạnh thì chắc chắn được ngộ lớn. Lại nữa theo Phật Quốc thiền sư, lỗi lầm lớn nhất (với thiền giả) là thiếu một nghi tâm đặt trên công án. Khi nghi tâm của họ lên đến điểm ngưng chú cao chót thì có cơ bùng vỡ. Giả sử có một trăm, và cả đến một nghìn thiền giả như thế, ta đoan chắc mỗi người sẽ đi tới chỗ cứu cánh. Khi thời cơ của đại nghi xuất hiện, họ cảm thấy mình như đang ở giữa hư không, mở rộng cả bốn phương và trải rộng đến vô cùng; họ không biết mình sống hay chết; họ cảm thấy trong suốt lạ thường và dứt khỏi mọi uế trước, tựa hồ đang ở trong một cái bồn pha lê, hay hãm mình trong một khối băng cứng mênh mông; lại y như một người mất hết cảm giác; ngồi thì quên đứng, mà đi thì quên ngồi.

“Không một tư tưởng, không một xúc cảm nào móng khởi trong tâm, cái tâm giờ đây hoàn toàn độc nhất chuyên vào công án mà thôi. Lúc bấy giờ, đừng sợ hãi, đừng phân biệt cứ thẳng đường mà tiến tới công án, rồi đột nhiên họ nghiệm thấy như có một sự bùng nổ, tựa hồ cái chậu băng giá vỡ tan từng mảnh, tựa hồ một cái lầu ngọc bị lung lay, và hiện tượng này được kèm theo một cảm giác hoan lạc bao la chưa từng kinh nghiệm trong suốt bình sinh…

Vì vậy, các ngươi nên đặt nghi vấn vào công án VÔ và nhìn xem có ý gì trong đó. Nếu nghi tâm của các ngươi không hề bị xao lãng, luôn luôn chăm chú trên chữ VÔ, dứt hết mọi ý niệm, xúc cảm và tưởng tượng, chắc chắn các ngươi sẽ đạt đến chỗ hoàn toàn ngưng chú… Đấy tất cả là do sự hiện diện của nghi tâm trong các ngươi; vì nếu không có nghi tâm thì không đi tới chỗ cao tột này và ta đoan chắc với các ngươi, nghi tâm là đôi cánh mang các ngươi đi đến cùng đích.”

(Trang 198, sđd)

Kết thúc phần nói về tầm tối quan trọng của “Nghi Tình” trong khán Công Án, Thoại Đầu, tác giả Suzuki viết:

“Trong một tác phẩm tựa đề “Bác Sơn tham thiền cánh ngữ”, những lời cảnh tỉnh về tham Thiền của Bác Sơn; tác phẩm thuộc triều Minh, vấn đề nghi tình được thảo luận rất kỹ, lược nêu như sau: “Trong công phu chứng Thiền, điều cần thiết là nuôi dưỡng một khát vọng mãnh liệt muốn hủy diệt cái tâm còn trong vòng sống chết. Khi khát vọng này được khơi dậy, hành giả nghe ra tuồng như mình đang bị một ngọn lửa hừng hực vây phủ. Y muốn trốn chạy nó nhưng không thể được, đứng im ra đấy không thể được, suy nghĩ vớ vẩn không thể được, mong chờ tha lực cũng không thể được. Để khỏi mất thì giờ, y phải vận hết sức bình sinh mà nhảy xổ ra, không e dè gì đến hậu quả.

Một khi khát vọng ấy được nuôi dưỡng, phải khơi dậy nghi tình và giữ vững nó trong lòng, cho đến phút chót khi đi tới một giải đáp. Mối nghi này nhắm từ chỗ “sinh từ đâu đến, chết đi về đâu” và luôn luôn được nuôi dương bởi khát vọng muốn vượt lên trên sống chết. Cái đó khó lắm, trừ phi nghi tình được thuần thục và tự bùng vỡ thành một trạng thái chứng ngộ.

Phương pháp làm thuần thục cốt ở chỗ : 

1 Không bận lòng đến những pháp thế tục.
2. Không đắm mình trong trạng thái tịch mặc.
3. Không dao động bởi vạn vật.
4. Luôn luôn tự cảnh tỉnh, như mèo rình chuột.
5. Tập trung tâm lực vào công án.
6. Không cố gắng giải quyết công án bằng trí năng trong khi chẳng có trình tự luận lý nào trong đó.
7. Không có mổ xẻ nó.
8. Không coi nó là một trạng thái vô hành.
9. Không coi trạng thái sáng tỏ tạm thời là cứu cánh.
10. Không đọc công án y như tuồng niệm Phật hay tụng chú (dharani).
Khi những chỉ dẫn này được thi hành nghiêm chỉnh, hành giả chắc chắn đưa nghi tâm đến chỗ thuần thục. Nếu không, không những không khơi dậy nổi nghi tình, hành giả còn dấn bước vào những chốn lầm lạc và sẽ không bao giờ có thể vượt khỏi sự ràng buộc của sống chết, nghĩa là không chứng được đạo Thiền”…

(Trang 200, sđd)

Sau khi lược sơ 200 trang của chương “Tu Tập Công Án: Phương Tiện Chứng Ngộ”, qua những trích dẫn kể trên, có lẽ chúng ta đã thấy rõ rằng:

1 – Tác giả Suzuki chủ trương “không thể dùng tâm ‎ý‎ thức, suy tư tìm hiểu, kiến giải, để khán Công Án, Thọai Đầu”.

2 – Đề lên rất cao tầm quan trọng của “nghi tình” trong khán Công Án.

3 – Ông không dạy “giải công án”. Suốt 200 trang trình bày về “Tu Tập Công Án: Phương Tiện Chứng Ngộ”, tác giả Suzuki không hề chủ trương “giải công án”. Không những thế, ông còn chống lại sự giải thích công án qua những dòng như: “…kẻ thù tai hại nhất của kinh nghiệm Thiền là trí năng, và … giải thích của trí năng không có tác dụng gì hết trong công án…”…

Như thế, nếu có ai “cho là” một cách sai lầm rằng soạn giả Suzuki dạy “giải công án”, có lẽ là do người đó chưa hề “đọc” Thiền Luận của ông Suzuki, mà chỉ đoán mò rằng vì ông Suzuki là người Nhật, nên dạy “giải công án”!

Ở Nhật có trường thiền dạy giải công án, cho là giải được càng nhiều, càng tốt. Nhưng soạn giả Suzuki không hề “dạy” ai “giải công án” trong Thiền Luận, không những thế trong những dẫn chứng, chúng ta đã thấy tác giả bác bỏ việc giải công án một cách kịch liệt.

Tóm lại, có một số thiền sư dạy giải công án tại Nhật, nhưng không có nghĩa là tất cả các thiền sư Nhật đều dạy giải công án. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này tại tu viện Shasta, là một chi nhánh của Soto Zen bên Nhật. Thiền viện tọa lạc trên núi Shasta, tiểu bang California. Đạo hữu Danny Việt (có một số bài đăng trong Thư viện Hoa Sen) đã từng tới đó tu học, viết rằng “không hề có chuyện “giải công án”. Ở đó thiền sinh theo phương pháp của thiền sư Đạo Nguyên truyền lại là “Chỉ Quán Đả Tọa” (Shikantaza meditation). Phương pháp này không “khán” hoặc “giải công án” gì cả”.

Thành kiến cũng tức là biên kiến, là ác kiến, là tai họa trong tu thiền vì nó “chấp chặt” vào một quan điểm nào đó, không cần biết là đúng hay sai, — trong khi tu Thiền thì lại chủ trương “phá chấp” triệt để. Thành kiến về một điều gì đó, không tự mình tìm hiểu đúng sai, tức là tự mình đã bịt mất một con mắt tìm chân lý, uổng phí lời đức Phật dạy trong bài kinh Kalama, không thấy được ánh sáng của Sự Thật.

Hà Minh Triết

(Tuệ Đăng)

Nguyễn Du và Kinh Kim Cang

Nguyễn Du và Kinh Kim Cang

Phan Đông Bích
(Phan Quang Việt)

Nói ra là bị kẹt
Không nói cũng không xong
Vì anh đưa một nét
Đầu núi ánh dương hồng.
(Thiền Sư Chân Nguyên, Việt Nam, thế kỷ 17)

1. Sơ lược tiểu sử

Nguyễn Du, tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quán tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con thứ bảy Cụ Hoàng Giáp Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm. Thân phụ Ông thi đỗ tiến sĩ và làm quan đến chức Tể Tướng thời Lê-Trịnh. Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765) ở phường Bích Câu, thành Thăng Long (sau này là Hà Nội), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 đời nhà Lê, khi thân phụ đang làm Tể Tướng. Nguyễn Du đỗ tam trường thi Hương khi 19 tuổi, là người học rộng, tinh thông cả Phật học và sành các môn thi họa.

Thân phụ Nguyễn Nghiễm qua đời lúc Nguyễn Du mới 10 tuổi (1775) và thân mẫu của Nguyễn Du là Bà Trần Thị Tần (1740-1778, sinh quán ở tỉnh Bắc Ninh) mất sớm lúc Nguyễn Du 13 tuổi nên Nguyễn Du về sống với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi, Hồng Lĩnh Hầu Nguyễn Khản, trấn thủ Sơn Tây-Hưng Hóa, làm quan Tả Tư Giảng cho thế tử Trịnh Tông) nuôi dưỡng và cho ăn học. (2) (‘Trích giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du,’ Giáo Sư Hồ Đình Chữ, Việt Luận xuất bản, Sydney, 1996). Năm 1784, vì đỗ thấp, Nguyễn Du chỉ được thế chân người cha nuôi họ Hà vừa mới mất, làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. (2) (sách đã dẫn, trang 5)

Trong suốt mười năm từ 1786-1795, Nguyễn Du lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình. Trong những năm 1796-1802, Nguyễn Du lui về ẩn cư ở quê nhà ở Tiên Điền, Hà Tĩnh, mặc dù sống rất nghèo nhưng an nhiên, tự tại vì Nguyễn Du đọc kinh Phật, tu học thiền để tìm đạo giải thoát. Năm Gia Long nguyên niên (1802), Nguyễn Du được triệu ra làm quan, bắt đầu là Tri Huyện Phụ Dực, Thái Bình; ít lâu sau làm Tri Phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Đông). Năm 1805, Nguyễn Du đã được phong tước là Du Đức Hầu. Sau đó Nguyễn Du cáo bệnh xin lui về quê.

Năm Gia Long thứ 5 (1806), Nguyễn Du được triệu vào kinh đô Huế giữ chức Đông Các Học Sĩ; năm 1809, làm Bố Chính tỉnh Quảng Bình. Tháng 2 năm 1813, Nguyễn Du được thăng Cần Chánh Điện Học Sĩ, rồi có chỉ sai làm Chính Sứ tuế cống đi Trung Hoa và tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) ông trở về Kinh được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Năm Minh Mạng nguyên niên (1820), Nguyễn Du sắp sửa đi sứ Trung Hoa lần nữa, nhưng bị bệnh mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, thọ 56 tuổi. Thi văn chữ Hán của Nguyễn Du để lại gồm Thanh Hiên Tiền Hậu Tập, Bắc Hành Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Lê Quí Kỷ Sự.

Về thơ Nôm, Nguyễn Du lưu lại trong kho tàng văn học Việt Nam thiên trường thi bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh (ĐTTT), được truyền tụng trong dân gian và được liệt vào tài liệu giáo khoa dạy ở bậc trung học. ĐTTT là áng văn chương tuyệt tác, viết theo thể thơ lục bát gồm 3254 câu, dài nhất trong các tác phẩm xưa nay. Ngoài ra, bài thơ chữ Nôm ‘Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh’ là một ngâm khúc gồm có 184 câu theo thể song thất lục bát, trong đó chứa đựng tấm lòng từ bi của người Phật tử Nguyễn Du đối với cảnh khổ của muôn vạn sinh linh, cũng là một tác phẩm giá trị được nhiều học giả nghiên cứu, trích giảng.

NguyenDu

2. Hai thời kỳ lưu lạc (1786 – 1795) và ẩn cư (1795 – 1802) của Nguyễn Du

Từ trước tới nay, các nhà biên khảo văn học thường bàn luận nhiều về Nguyễn Du và tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, mà ít khi nói tới hai giai đoạn quan trọng trong đời Nguyễn Du là thời kỳ sống lưu lạc ở quê vợ và việc lui về ẩn cư ở quê nhà và trong thời gian này Nguyễn Du nghiên cứu kinh điển Phật giáo, tu học thiền tông để rồi hơn mười năm sau Nguyễn Du đã chứng ngộ khi đi sứ sang Trung Hoa (1813 – 1814) (sẽ trình bày rõ thêm trong những phần sau của bài viết).

2.1 Thời kỳ lưu lạc từ 1786 – 1795

Trong suốt mười năm, Nguyễn Du lưu lạc ở quê vợ ở Thái Bình, và Ông đã viết: ‘Thập tải phong trần khứ quốc xa’ (xin tạm chuyển sang tiếng Việt: ‘Mười năm gió bụi cách xa quê’) vì hai lý do sau: (i) năm 1784,kiêu binh nổi dậy kéo đến nhà Nguyễn Khản,Ông trốn được lên Sơn Tây ‘rồi về Hà Tĩnh,nhưng dinh cơ ở Thăng Long đều bị phá sạch, (ii) người anh khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh, con của bà trắc thất Nguyễn ‘Thị Xuyên, chống lại Tây Sơn nên bị giết, và cũng vì vậy mà Tây Sơn phá hết dinh cơ ‘của họ Nguyễn ở Tiên Điền.

Trong bài thơ Quỳnh Hải Nguyên Tiêu có câu: ‘Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán’ (Ở Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan tác) cho ta thấy được lý do Nguyễn Du phải ‘về sống ở quê vợ.’ Suốt mười năm, Nguyễn Du sống ăn nhờ ở đậu, đau ốm liên miên, nghèo khổ không có ‘tiền mua thuốc, trôi nổi nay đây mai đó, túng quẫn bi thương… Trong những bài thơ Xuân Nhật Ngẫu Hứng, Tự Thán, Bất Mị, Sơn Cư Mạn Hứng, U Cư,… ta ‘bắt gặp được rất nhiều ý tình về cảnh sống xa quê hương, sầu thời thế, nghèo khổ, lưu lạc, ‘tan tác …’ (2) (sách đã dẫn, trang 2-9).

2.2 Thời kỳ ẩn cư từ 1795 – 1802

Năm 1796, Nguyễn Du định rời Hà Tĩnh để vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh nên bị tướng Nguyễn Thận của nhà Tây Sơn bắt giam. Nhưng Nguyễn Thận đã tha cho Nguyễn Du vì nể tình bạn với Nguyễn Nễ, anh của Nguyễn Du. Sau đó Nguyễn Du lui về ẩn cư ở quê nhà. Sách có ghi là Nguyễn Du theo gót La Sơn Phu Tử (9) đi ngao du sơn thủy, đi khắp cả vùng 99 ngọn núi Hồng Lĩnh, dãy núi vùng Nghệ An – Hà Tĩnh, cách quê của Nguyễn Du khoảng 10 cây số. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền chép ®g trở về, lấy cảnh núi sông làm vui, tự gọi mình là Hồng Sơn Liệp Hộ (người săn bắn núi Hồng) và Nam Hải Điếu Đồ’ (người chài lưới biển Nam).

Về nhân vật lịch sử La Sơn Phu Tử, theo Trần Trọng Kim, là: ®g Nguyễn Thiệp, tự là Khải Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên Thành, thuộc huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là Lục Niên tiên sinh hay là La Sơn Phu Tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc Hà, biết tiếng Nguyễn Thiệp, đã mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp, ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi Ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho người đón mời ông, ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ý nghĩa của ông đã trình bày.’ (9) (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển 2, Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn 1971, trang 140-141).

2.2.1 Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy là tiên sinh đã chán ngán việc học hành,kiến thức thế gian tầm thường ‘Suốt đời thơ phú ròng vô bổ, Đầy giá sách đàn chất mãi ngu.’ trong bài thơ sau:

Mạn Hứng

Long Vĩ châu biên đa bạch âu,
Lam Giang đường thượng hữu hàn nho.
Nhất sinh từ phú tri vô ích,
Mãn giá cầm thư đồ tự ngu.
Bách tuế vi nhân bì thuấn tức,
Mộ niên hành lạc tích tu du.
Ninh tri dị nhật tây lăng hạ,
Năng ẩm trùng dương nhất trích vô.

(Long Vĩ bờ bên một đám cò,
Sông Lam trên bến bác hàn nho.
Suốt đời thơ phú ròng vô bổ,
Đầy giá sách đàn chất mãi ngu.
Cuộc sống trăm năm coi mấy chốc,
Chuyện vui tuổi cả tiếc từng giờ.
Phiá tây bãi cỏ khi nằm xuống,
Chén rượu trùng dương ai tưới cho.)

(Nguyễn Vũ My và Trần Thanh Mại dịch) (2) (sách đã dẫn, trang 10-11)

2.2.2 Từ những chán ngán cái học tầm thường của thế gian, Nguyễn Du đã tìm đọc kinh điển Phật (nhất là kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật) và học tu thiền nên dù sống nghèo mà lòng vẫn an nhiên tự tại để ‘Lá rơi hoa nở việc trước mắt, Tâm trạng quanh năm vẫn nhẹ nhàng,’ hay là ‘Đạt sĩ, cõi lòng trăng sáng tỏ, Cao nhân, trước cửa núi bao la’ như trong hai bài thơ sau:

Tạp Thi II

Hồng Sơn nhất sắc lâm bình cừ
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch,
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư.
Tiếu đề tuẩn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời tâm kính tự như như.

(Trên giải non Hồng dưới làn nước
Nho nghèo ở đó cũng thanh nhàn
Nghìn tầm mây bạc quanh giường chiếu,
Một mảnh trăng trong giọi sách đàn.
Cười khóc theo đời qua buổi loạn,
Trầm tiềm giữ miệng dưỡng thân tàn.
Lá rơi hoa nở việc trước mắt,
Tâm trạng quanh năm vẫn nhẹ nhàng.)

Tạp Ngâm II

Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian,
U cư sầu cực hốt tri hoan.
Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,
Xử sĩ môn tiền thanh giả san.
Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt,
Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan.
Táo đầu chung nhật vô yên hỏa
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.

(Đầu sông Long Vĩ một gian nhà,
Ở ẩn buồn teo bỗng thú a !
Đạt sĩ, cõi lòng trăng sáng tỏ,
Cao nhân, trước cửa núi bao la.
Sách chồng cạnh gối đỡ thân mệt,
Rượu nhắp bên đèn đổi sắc da.
Trong bếp suốt ngày không khói lửa,
Ngoài song no với khóm hoàng hoa.)

(Nguyễn Vũ My và Trần Thanh Mại dịch) (2) (sách đã dẫn, trang 10-11)

2.2.3 Nhờ thực hành sâu xa Trí Tuệ Bát-nhã của kinh Kim Cương, Nguyễn Du quán xét tất cả các pháp hữu vi đều không có tự tánh, vô thường sinh diệt. Vì buông xả các pháp và vọng tưởng nên Nguyễn Du cho chúng ta thấy tiên sinh đã ‘hàng phục vọng tâm và an trụ chân tâm’ của mình qua bài thơ ‘Đạo Ý’sau đây: (2) (bài thơ trong sách đã dẫn, trang 27-28)

Đạo Ý

Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thủy vô ba đào.
Bất bị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất dao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất dao hoàn phục chỉ.
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.

(Trăng sáng giọi giếng xưa,
Nước giếng không gợn sóng.
Không ai người khuấy lên
Lòng này không xao động.
Dù ai người khuấy lên
Động qua lặng rất chóng.
Trong vắt một tấm lòng,
Giếng xưa trăng giọi bóng.)

2.2.4 Khi tâm an trụ không dính mắc 6 trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nên tâm như như chẳng động. Chúng ta hãy đọc bài thơ ‘Đề Tam Thanh Động’ của Nguyễn Du để hiểu rõ ‘tâm’ của thi hào Tố Như ‘thường định không rời cảnh thiền’ vì Nguyễn Du đã đọc và hiểu kinh Kim Cương nên không còn chấp vào ‘ngã tướng,’ ‘nhân tướng,’ ‘chúng sinh tướng’ và ‘thọ giả tướng’ nên quán sát tất cả các cảnh giới đều không có tướng (vô tướng) (‘Mãn cảnh giai không hà hữu tướng,’ Khắp cảnh giới đều trống rỗng thì làm gì còn sắc tướng):

Đề Tam Thanh Động

Vạn ban thủy thạch thiện đại xảo,
Nhất lạp kiền khôn khai tiểu thiên,
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng,
Thử tâm thường định bất ly thiền.

Ngàn muôn thứ nào đá,nào nước, xếp đặt tự nhiên,nghệ thuật rất khéo,
Một hạt nhỏ trời đất mở ra một thế giới nhỏ nữa,
Khắp cảnh giới đều trống rỗng thì làm gì còn sắc tướng,
Lòng này thường định không rời cảnh thiền.

(Bài dịch của Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục, Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, Xuân Thu, trang 173).

2.3 Sau này khi đi sứ sang Trung Hoa (1813 – 1814), Nguyễn Du đã viết trong bài thơ ‘Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài’ và cho ta thấy Nguyễn Du đã đọc kinh Kim Cương hàng ngàn lần trong những năm Nguyễn Du ở ẩn nơi quê nhà:

‘… Minh kính diệc phi đài,
Bồ đề bản vô thụ.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh;
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ,
Chung tri: vô tự thị chân kinh.’

Bài dịch của Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục:

‘… Tấm gương trong không phải thật có đài gương,
Cây Bồ Đề cũng không phải cây thật.
Ta đọc kinh Kim Cương có hơn ngàn lần,
Ý nghĩa uyên thâm trong ấy phần nhiều không hiểu;
Tới nay đến dưới đài Phân Kinh này,
Mới biết rằng kinh không chữ mới thật là chân kinh.’

(4) (Nguyễn Đăng Thục, Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, Xuân Thu, trang 173)

Chúng ta ai cũng biết là kinh Kim Cương là kinh thường tụng đọc hằng ngày trong Thiền tông và những ai học và thực hành thiền đều đọc kinh này vì Đức Phật đã dạy ông Tu Bồ Đề trong kinh này:

Truyen Kieu

Nếu lại có người nào đối với kinh này, lãnh thọ và hành trì được, cho chí đến bốn câu kệ, và lại đem nói cho người nghe mà làm, thì lại phúc hơn người kia. Vì cớ gì vậy? – Này ông Tu Bồ Đề, hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Anuttara Samyak Sambodhi, tiếng Hán chuyển âm là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề) của chư Phật, cũng đều bởi kinh này mà ra. Ông Tu Bồ Đề, cái pháp ta gọi là Phật pháp đó, tức không phải là Phật pháp.’ (3) (Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, phận thứ 8, ‘Y pháp xuất sinh’Nương theo pháp mà sinh ra, Thiều Chửu dịch và giảng giải, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức, xuất bản năm 1984, trang 47-49).

Chúng ta có thể hiểu là Nguyễn Du học Phật và tu theo Thiền tông trong thời gian ở ẩn nơi quê nhà và Nguyễn Du cũng đọc cả ‘Pháp Bảo Đàn Kinh’ của Lục Tổ Huệ Năng khi tiên sinh đã trích dẫn hai câu trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng:

Minh kính diệc phi đài,
Bồ đề bản vô thụ.

(Gương sáng cũng không đài
Bồ đề chẳng có thân.)

3. Vào những năm cuối của đời mình, Cụ Vũ Khắc Khoan (sinh ngày 27 tháng 2 năm 1917 tại Hà Nội và qua đời ngày 12 tháng 9 năm 1986 tại Minnesota, Hoa Kỳ) đã đọc và nghiên cứu kinh Phật do đó trong tác phẩm ‘Đọc Kinh’ Cụ Vũ Khắc Khoan đã có viết về Nguyễn Du, tác giả của tuyệt tác Đoạn Trường Tân Thanh, như sau:

Khoảng đầu thế kỷ thứ 19, nhân một chuyến đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du có dịp đến tham Phân Kinh Thạch Đài. Bấy giờ – trên 1,000 năm đã qua – đá đài Phân Kinh đã mòn. Rêu leo xanh mái, mưa cũ đọng chân tường, cỏ dại lấp lối đi, hoang vu hun hút hành lang vắng lặng. Trời ngả vào chiều. Nắng quái lung linh vách đá. Đâu rồi những vết kinh xưa. Lăng Già, Viên Giác, Bát Nhã, Kim Cương. Kim Cương… Ngã độc Kim Cương thiên biến linh.’

Tôi nghe như vầy: Một hôm tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ Kheo đều ở tịnh xá Kỳ Hoàn, trong vườn của thái tử Kỳ Đà và ông trưởng giả Cấp Cô Độc. Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi yên tịnh. Khi đó, ở trong đại chúng, ông trưởng lão Tu Bồ Đề đứng dậy, vén tay áo bên hữu, gối bên hữu quỳ xuống, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: – Hy hữu thay, đức Thế Tôn! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị Bồ Tát, Ngài rất hay khéo dạy bảo các vị Bồ Tát. Bạch Thế Tôn, nếu có người phát tâm Bồ Đề muốn cầu quả Phật, thì:

Làm sao hàng phục vọng tâm?
Làm sao an trụ chân tâm? …’

(Kinh Kim Cương, phận Pháp Hội Nhân Do,và phận Ngài Tu Bồ Đề (Subhuti) thỉnh cầu Phật thuyết pháp).

‘Hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm, hai niềm thắc mắc không riêng của ông Tu Bồ Đề, mà của toàn thể đại chúng thuở đó, của chúng ta hôm nay, của Nguyễn Du, riêng Nguyễn Du một mình.

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh 1,000 lần, hai niềm thắc mắc đó đặt ra. Và biết bao nhiêu lần nữa, khi cuốn kinh gấp lại? Đôi khi, từ những ngôn từ tường-đồng-vách-sắt dựng lên trong kinh nghe cũng có vọng ra bên ngoài, lọt vào tâm thức Nguyễn Du một chút gì – như vậy, như vậy – tạm gọi là nghĩa của kinh. Nhưng nghĩa đó chắc đâu đã là ý của người nói kinh? Ý của đức Thế Tôn năm xưa đâu phải chỉ là như vậy, như vậy?

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Lần thứ 1,000 lẻ một, không có kinh.
Chỉ có nắng chiều và đá tảng.
Nắng dợn trên đá phân kinh.
Và đá và nắng bỗng nhiên hội duyên nói pháp.

…. Thuở đó, xa rồi.
Chấm dứt.
Giờ đây nắng tắt, đá mòn.
Giờ đây chỉ còn một chút chập chờn.

Trong đêm nghe như đã bắt đầu, lời kinh âm u như vọng như chân, nghĩa kinh ẩn ẩn hiện hiện, ánh lửa chài le lói bên sông lạ, ý kinh tuyệt mù trong mộng và huyễn, là bọt nước mặt hồ trong cơn mưa ngâu, giọt sương chiều đọng lại, giọt sương mai tan đi. Vừa kịp thấy đó, chớp mắt không còn, mới nghe vang lên đã chìm vào sâu lặng, hay, rồi lại lãng đãng, nhạt nhòe, biết mà nói lên thì bất … khả thuyết. Thấy-nghe-hay-biết chỉ là chập chờn cánh con bướm trắng trên luống cải xanh. Hay chỉ là một niệm khởi lên chập chờn sương khói, Nguyễn Du đã lọt vào một khoảng mù khơi tịch mịch?

Kỳ trung áo chỉ đa bất minh

Bài Phân Kinh Thạch Đài giữa lòng đá vắng lặng không là một thú nhận nỗi bất lực của riêng Nguyễn Du trước những trang Kim Cương. Bài ký Phân Kinh là một thú nhận nỗi bất lực của ngôn từ và văn tự con người khi muốn nắm bắt cái chập chờn 鯠chỉ’ của cõi vô ngôn đó, bất khả tư nghì. Tôi gắng nhớ lại bài thơ, lõm bõm. Dừng lại ở hai câu:

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh

Khá lâu. Bâng khuâng nghĩ đến niềm khắc khoải của người xưa tầm đạo. Làm sao hàng phục vọng tâm? Làm sao an trụ chân tâm?

Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa

Như gần như xa nhưng vẫn ở đó, câu trả lời vẫn ở đó, nơi vườn Kỳ Thọ. Và bây giờ, vượt khỏi ngôn từ và văn tự, giữa Kim Lăng, vọng ra từ kẽ đá phân kinh, mờ mờ ảo ảo, như gần như xa, có mà không, không nhưng có, như mộng như ảo, như bọt nổi trên mặt nước, như chớp biển ngoài khơi, như bóng hình lãng đãng trong gương, như giọt sương đêm đọng lại, như giọt sương mai tan đi trên đầu ngọn cỏ, câu trả lời vẫn ở đó, câu trả lời đến thẳng với Nguyễn Du, trong hoang vu Phân Kinh Thạch Đài.

Này Tu Bồ Dề. Hãy nghe lời đá, lời đá nói rằng:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán

Tất cả, cái gì gọi lên cũng chỉ là tạm gọi. Ngay cả hai chữ Kim Cương. Như lai nói Kim Cương tức không phải Kim Cương, thế mới gọi là Kim Cương.’ (1) (Đọc Kinh, Vũ Khắc Khoan, viết năm 1984, Bà Vũ Khắc Khoan tại Hoa Kỳ và An Tiêm xuất bản, 1988, trang 22 – 26). Khi Vũ Khắc Khoan viết quyển ‘Đọc Kinh’ thì Ông chỉ trích dẫn có hai câu gần cuối bài thơ ‘Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài’ của Nguyễn Du.

4. Bốn câu kệ dẫn ở trên là bốn câu kệ lấy từ phận thứ 32 của Kinh Kim Cương ‘ng Hóa Phi Chân’ (ng cơ hiện thân hóa độ không phải là thật) mà Cụ Thiều Chửu đã chuyển sang tiếng Việt như sau: (3) (sách đã dẫn, trang 103-104)

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán

(Hết thảy pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bọt, bóng
Như móc, cũng như chớp
Nên coi như thế này)

Cụ Uyên Như Thiền trong bài ‘Vài lời giới thiệu Kinh Kim Cương’ đã giới thiệu bốn câu cuối của bài thơ Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài của Nguyễn Du và đã viết: ‘Ai cũng biết tác giả truyện Kim Vân Kiều là Cụ Nguyễn Du, nhưng nào có ai ngờ chính Cụ là nhà Phật học thâm thuý về Đại Thừa cho nên Cụ đã có làm bài thơ như sau:

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài thị
Chung tri: vô tự thị chân kinh.

Đại ý nói rằng: Cụ đã tụng Kinh Kim Cương hơn cả nghìn lần mà chưa giác ngộ, sau đến Phẩm Thạch Đài, Cụ mới giác ngộ mà hiểu rằng Kinh thiệt là cuốn Kinh không có một chữ nào. Thảo nào thế nên Cụ đã lồng tư tưởng Phật Giáo vào truyện Kiều mà ít ai lưu ý.’ (3) (Vài lời giới thiệu Kinh Kim Cương, sách đã dẫn, trang 13). Cụ Uyên Như Thiền đã hiểu Nguyễn Du sâu sắc nhưng Cụ chỉ lầm một điểm duy nhất khi viết về ‘Phẩm Thạch Đài’ như trên vì trong Kinh Kim Cương (tất cả có 32 phận) không có phận nào tên là Phẩm Thạch Đài.

NguyenDuvaKinhKimCang

Theo Cụ Thiều Chửu, dịch giả của quyển Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật (VAJRACCHEDIK PRAJNA PARAMITA) thì:’Kinh này nguyên không có chia ra chương mục gì cả, sau ngài Chiêu Minh Thái Tử nhà Lương chia làm 32 phận. Song, tuy chia làm 32 phận, mà nghĩa văn thì vẫn một mạch liên quán nhau, không thể cắt đứt từng đoạn được. Chia ra từng phận cho người mới học dễ nhớ mà thôi, còn người học tinh thì phải nghiên cứu cho tinh mà dung hóa cả làm một mới có thể hiểu được.’ (3) (sách đã dẫn, trang 27).

5. Cụ Hương Giang Thái Văn Kiểm trong bài khảo luận công phu ‘Lời Bạt: Đầu năm Quý Dậu 1813 Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc’ đã viết (bài này in trong ‘Trích giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du,’ Giáo Sư Hồ Đình Chữ, Việt Luận xuất bản, Sydney, 1996, trang 305-329) (2):

Từ trước tới nay, các nhà biên khảo văn học thường bàn luận nhiều về Nguyễn Du và Truyện Kiều, mà ít khi nói tới một trạng thái khác trong đời Cụ là việc đi Sứ sang Trung Quốc.’ (2)

Về việc Nguyễn Du đi sứ, Gia phả chép: ‘Tháng Hai năm Quý Dậu (1813), ông được thăng hàm Cần Chính Điện Học Sĩ, rồi có chỉ sai làm Chính Sứ tuế cống, cùng với các ông Phó Sứ là Đàm Ân Hầu, Thiêm Sự bộ Lại, và Phong Đăng Hầu, Thiêm Sự bộ Lễ, đi sứ Trung Quốc. Tháng tư năm Giáp Tuất (1814) ông trở về Kinh.’ (2) (sách đã dẫn, trang 315).

Nguyễn Du về Kinh để phúc trình sứ mạng lên nhà vua, đồng thời mang về nhiều quý thư dị vật. Theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, ngoài bản phúc trình thường lệ, Nguyễn Du còn sáng tác Bắc Hành Thi Tập và Thuý Kiều Truyện. (Vưu trường ư thi, thiên quốc âm, Thanh sứ hoàn dĩ Bắc Hành Thi Tập cập Thuý Kiều Truyện hành thế). (2)

‘Nguyễn Du đã tìm cách viếng thăm hầu hết những danh lam thắng cảnh, di tích văn chương và lịch sử, đền đài, lăng tẩm, miếu điện liên hệ những danh nhân, anh hùng, liệt nữ, nữ lưu mà Cụ đặc biệt có nhiều cảm tình nhất, như hai Bà Nữ Anh và Nga Hoàng mà vua Nghiêu đã gả cho vua Thuấn.’ (2)

‘Trên đường châu du Trung Quốc, Nguyễn Du đã viếng thăm miếu điện, đền đài, lăng mộ của hầu hết những danh nhân kỳ nữ nước bạn, mỗi nơi đều có cảm tác một vài bài thơ diễn tả tâm tình, cảm giác, và phê phán công minh, khen chê đúng mức. Nguyễn Du đã nhắc tới Mã Viện, Hoàng Sào, hai bà vợ vua Thuấn, Dương Quý Phi, Triệu Vũ Đế, Thái Văn Cơ, Trương Thị, Vi Ưng Vật, Tam Tạng Trần Huyền Trang, Liễu Tôn Nguyên, Khuất Nguyên, Giả Nghị, Đỗ Phủ mà Tiên Điền đặc biệt hâm mộ và tôn trọng như bậc thầy.’ (2)

Cụ Hương Giang Thái Văn Kiểm trong bài khảo luận cũng đã trích dẫn nhiều bài thơ trong tác phẩm Bắc Hành Thi Tập mà Nguyễn Du đã sáng tác suốt trong thời gian đi sứ sang Trung Quốc, nhưng tiếc thay Cụ Thái Văn Kiểm đã không trích dẫn bài thơ quan trọng của Nguyễn Du khi Người đến viếng cảnh hoang tàn đổ nát của một di tích lịch sử Trung Quốc: Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài.

Nhưng Lương Chiêu Minh Thái Tử là ai? Lương Chiêu Minh Thái Tử chính là Thái Tử của vua Lương Võ Đế (Liang Wu Ti) ở Trung Hoa. Vua Lương Võ Đế đã có công xây dựng nhiều ngôi chùa Phật giáo, in nhiều kinh Phật và độ các Tăng, và cũng là vị vua Trung Hoa thỉnh mời Tổ Bồ Đề Đạt Ma (sau này là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa) về Kim Lăng để thưa hỏi Tổ về Phật pháp.

Ngoài việc Lương Chiêu Minh Thái Tử chia Kinh Kim Cương ra làm 32 phận (hay là đoạn vì kinh này trước kia không có chia ra làm chương mục), Lương Chiêu Minh Thái Tử còn cho xây dựng Phân Kinh Thạch Đài (đầu thế kỷ thứ 6 tây lịch) để làm một thư viện quốc gia về Phật học, nơi tàng trữ, thu tập tất cả kinh,luật, luận Phật giáo đương thời và là trung tâm nghiên cứu Phật học.

Cứ theo sách ghi chép thì Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) rời nước Quốc Hương, nam Thiên Trúc (Dekhan) để đi đến Việt Nam đầu tiên và có lẽ ngài ở đây một thời gian khá lâu, vì Việt Nam khi đó được coi là trung tâm giao tiếp Ấn Hoa, nơi người ta có thể tìm được những người biết cả tiếng Trung Hoa lẫn tiếng Thiên Trúc. Sự kiện chỉ ghi rằng: Bồ Đề Đạt Ma trước đến Việt Nam sau vượt sông qua Ngụy (nguyên văn: ‘Sơ liên tống cảnh Nam Việt, mạt hựu tỷ độ chí Ngụy,’ sách Tục Cao Tăng Truyện, chương 19, Đại Tạng Kinh, quyển 50). (6) (trích dẫn từ quyển ‘Bồ Đề Đạt Ma, Tuyệt Quán Luận,’ Vũ Thế Ngọc dịch, EastWest Institute xuất bản, Hoa Kỳ, 1983).

NguyenDuvaKinhKimCang2

Theo sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì khi Bồ Đề Đạt Ma đến Quảng Châu, Trung Hoa, vào khoảng thập niên 470, thì thứ sử tỉnh này lấy lễ nghinh tiếp và dâng biểu về triều báo tin lên vua Lương Võ Đế. Vua sai sứ thỉnh mời Tổ Bồ Đề Đạt Ma về Kim Lăng để thưa hỏi Tổ về Phật pháp. Truyền Đăng Lục ghi lại cuộc đối đáp này như sau:

‘-Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, in kinh, độ tăng rất nhiều. Vậy có công đức gì ‘chăng?

‘Tổ Đạt Ma đáp: – Đều không có công đức.

— Tại sao không có công đức?

— Bởi vì đó chỉ là những tiểu quả của cõi người cõi trời mà thôi, là cái nhân hữu lậu như bóng theo hình, tuy có mà chẳng thật.

— Vậy thế nào mới là thiệt công đức?

— Trí hoàn toàn trong sạch. Thể phải tự nhiên trống vắng, như thế mới là Công Đức. Công Đức là nơi bổn tánh chứ chẳng phải do nơi công nghiệp thế gian (xây chùa, chép kinh…) mà cầu đổi cho được.

— Vua lại hỏi: – Chân lý tối cao của bậc thánh là gì?

— Khi tỉnh rõ thông suốt rồi thì không có gì gọi là thánh cả.

— Đối diện với trẫm là ai?

— Không biết.

Vua Lương Võ Đế không lãnh hội được, lui về nghỉ. Tổ Đạt Ma biết căn cơ không hợp, ngài lưu lại vài hôm rồi qua Giang Bắc, ngài lên núi Tung Sơn, ở chùa Thiếu Lâm trọn ngày ngồi thiền đối vách im lặng trong chín năm.’ (6) (sách đã dẫn, trang 68-70).

Tổ Bồ Đề Đạt Ma là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa, đã ấn chứng và truyền y bát cho Huệ Khả là vị Tổ Thiền Tông thứ hai, rồi truyền xuống ngài Tăng Xáng, vị Tổ thứ ba, ngài Đạo Tín, Tổ thứ tư, ngài Hoằng Nhẫn, Tổ thứ năm và sau cùng truyền đến Huệ Năng là Tổ thứ sáu.

6. Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục, trong quyển ‘Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du’ (4) đã cho người đọc khám phá ra Nguyễn Du là một nhà học Phật, tinh thông Phật pháp qua bài thơ chữ Hán mà Nguyễn Du đã viết khi đến thăm ‘Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài’ trong thời gian đi sứ sang Trung Quốc:

LƯƠNG CHIÊU MINH THÁI TỬ PHÂN KINH THẠCH ĐÀI

Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn,
Thuyết pháp độ nhân hằng hà sa số.
Nhân liễu thử tâm, nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Minh kính diệc phi đài,
Bồ đề bản vô thụ.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh;
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ,
Chung tri: vô tự thị chân kinh.

Bài dịch của Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục:

Ta nghe nói Thế Tôn ở Linh Sơn,
Thuyết pháp độ người như cát sông Hằng.
Người ta giải được tâm này ấy là mình tự độ,
Linh Sơn chỉ ở tại lòng mình.
Tấm gương trong không phải thật có đài gương,
Cây Bồ Đề cũng không phải cây thật.
Ta đọc kinh Kim Cương có hơn ngàn lần,
Ý nghĩa uyên thâm trong ấy phần nhiều không hiểu;
Tới nay đến dưới đài Phân Kinh này,
Mới biết rằng kinh không chữ mới thật là chân kinh.

(4) (Nguyễn Đăng Thục, Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, Xuân Thu, trang 174)

Nguyễn Du là một thiên tài về thi ca với khả năng uyên bác về văn học thế mà khi đọc Kinh Kim Cương cả ngàn lần Nguyễn Du vẫn chưa hiểu trọn vẹn nghĩa của kinh như Nguyễn Du đã viết. Xin được chuyển hai câu cuối của bài thơ sang tiếng Việt như sau:

Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Chung tri: vô tự thị chân kinh.

(Thạch Đài tìm đến hiểu ra
Chân kinh thật nghĩa chẳng qua không lời.)

Vì Nguyễn Du học Phật và nghiên cứu kinh điển Phật Giáo đã nhiều năm một cách hết sức tinh tấn nhất là kinh điển Đại Thừa trong đó có Kinh Kim Cương mà Nguyễn Du đã đọc hàng ngàn lần, do đó vào năm 1813, khi Nguyễn Du đến thăm Phân Kinh Thạch Đài (xây vào khoảng thế kỷ thứ 6) và sau hơn 12 thế kỷ đã trôi qua, kinh điển nào thấy đâu? bao người tụng trì, nghiên cứu đã đi về đâu? Bây giờ ở nơi đó chỉ còn di tích hoang tàn đổ nát của Đài khiến cho Tâm Chân Như của Nguyễn Du bừng sáng để Nguyễn Du chứng ngộ Tánh Không (Sunnyatta) của Kinh Kim Cương và đã thốt lên rằng Kinh Kim Cương chẳng qua không có chữ (vô tự): ‘Chung tri: vô tự thị chân kinh’ (Chân kinh thật nghĩa chẳng qua không lời).

Nguyễn Du đã đọc kinh điển Phật để rồi quán sát thông suốt và nhận ra rằng lời kinh Phật nói ra đều là những pháp môn phương tiện dắt dẫn chúng sinh vào Đạo; như nước dùng để rửa bụi, như thuốc dùng để chữa bệnh. Nay chứng được ‘thân không,’ ‘tâm không,’ ‘tánh không’ thì tất cả các pháp đều không, kể cả Phật pháp trong đó có Kinh Kim Cương. Bệnh khỏi thì thuốc cũng trừ, gọi là chứng ngộ ‘Pháp không.’ Đức Phật đã dạy: ‘Như Lai thường nói: Này Tỳ Kheo các ông nên biết ta nói pháp ví dụ như chiếc bè; pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp’ (‘Như Lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ Kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.’) (10) (‘Kinh Kim Cang Giảng Giải,’ Thích Thanh Từ, đoạn thứ 6, trang 26-27, Phước Huệ Đạo Tràng, tái bản và ấn tống, Úc Đại Lợi, Phật Lịch 2531, 1987).

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Chung tri: vô tự thị chân kinh.

(Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Thạch Đài tìm đến hiểu ra
Chân kinh thật nghĩa chẳng qua không lời)

7. Hai câu 5 và 6 trong bài thơ trên: ” Bồ đề bản vô thụ (thọ), minh kính diệc phi đài” là hai câu kệ mà Nguyễn Du trích từ bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng (Hui neng, 638 – 713, tây lịch) khi Lục Tổ còn học ở nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (xin tạm chuyển sang tiếng Việt):

Bồ đề bản vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai?

(Bồ đề chẳng có thân
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Nào chỗ vướng trần ai?)

Bài kệ nói trên do Lục Tổ Huệ Năng viết sau khi đọc bài kệ của Thượng Tọa Thần Tú là thầy Giáo Thọ và cũng là đệ tử của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Thượng Tọa Thần Tú viết bài kệ như sau (xin tạm chuyển sang tiếng Việt):

Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhá trần ai

(Thân như cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Giờ giờ cần phủi sạch
Chớ để vướng trần ai)

(5) (Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng, Thích Minh Trực dịch (Sài Gòn 1944), Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, Phật Lịch 2531, Hoa Kỳ, 1987, trang 25, 29)

Chúng ta cũng không quên là Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ chân tánh khi Lục Tổ được nghe kinh Kim Cương:

‘Huệ Năng nầy liền hiểu ý Tổ Sư, đến canh ba vào thất. Ngũ Tổ (Hoằng Nhẫn Đại Sư) lấy áo Ca Sa đắp cho ta; chẳng cho ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho ta nghe, đến câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Nên không trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình.’ (Để cái tâm trống không, chẳng trụ vào đâu cả) (nguyên văn chữ Hán ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,’ câu này ở phận thứ 10 ‘Trang Nghiêm Tịnh Độ,’ trang nghiêm cõi thanh tịnh, trong Kinh Kim Cương).

‘Huệ Năng nầy nghe nói rồi liền rất tỏ sáng, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, mới bạch với Tổ Sư rằng:

Nào dè tánh mình vốn tự nhiên trong sạch
Nào dè tánh mình chứa đầy đủ (muôn pháp)
Nào dè tánh mình vốn không lay động
Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp.

Nếu chẳng biết Bổn Tâm, thì học pháp vô ích. Bằng biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Phật, Thầy cõi trời và cõi người vậy.’ (5) (sách đã dẫn, trang 32-33)

8. Thi hào Nguyễn Du Đã Đưa Triết Lý Phật Giáo Vào Đoạn Trường Tân Thanh

8.1 Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đưa triết học và tư tưởng Phật giáo vào trong thi ca như nghiệp, thiện căn, tâm,… thí dụ như trong đoạn thơ sau:

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. (câu thứ 3252, ĐTTT )

Chữ tâm ở câu thứ 3252 trong ĐTTT: ‘Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’ cũng là chữ ‘tâm’ mà Nguyễn Du viết ở trong bài thơ Đề Tam Thanh Động đã dẫn ở trên: “Thử tâm thường định bất ly thiền” (Lòng này thường định không rời cảnh thiền),

Hay chữ tâm trong bài Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài:

Nhân liễu thử tâm, nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.

Người ta giải được tâm này ấy là mình tự độ,
Linh Sơn chỉ ở tại lòng mình.

Hay chữ tâm như như trong bài thơ Tạp Thi II đã dẫn ở trên: “Tứ thời tâm kính tự như như” (Tâm trạng quanh năm vẫn nhẹ nhàng).

Tâm mà Nguyễn Du nói đến là Tâm chân như vì ‘tâm chơn như là thể, tâm sinh diệt là tướng dụng, tâm này không hư vọng nên gọi là ‘chơn,’ không biến đổi nên gọi là ‘như.’ Thế nên trong Luận ( Đại Thừa Khởi Tín Luận * ) mỗi mỗi nói: ‘Tâm chơn như, tâm sanh diệt.’ (7) (Nguồn Thiền, nguyên tác ‘Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự ‘, Thiền Sư Tông Mật, Hoà thượng Thích Thanh Từ dịch, Phật Lịch 2512, 1969 tây lịch, Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc). Đại Thừa Khởi Tín Luận (Sraddhotpàda) của Bồ Tát Mã Minh viết vào thế kỷ thứ 1, tây lịch.

8.2 Tác giả Mai Hiền Lương trong tác phẩm ‘Tiếng Lòng của Nguyễn Du’ dầy gần 300 trang gồm 21 bài luận, đã dẫn nhiều đoạn thơ trong Đoạn Trường Tân Thanh để giải thích và chứng minh là về mặt tư tưởng Nguyễn Du đã đưa triết lý của đạo Phật vào ĐTTT. (8) (Tiếng Lòng của Nguyễn Du, Mai Hiền Lương, Nhân Duyên ấn hành 1997, Gia Nã Đại).

Một thí dụ dẫn chứng của tác giả Mai Hiền Lương: mở đầu Đoạn Trường Tân Thanh (ĐTTT), Nguyễn Du đã đề cập đến cái KHỔ của kiếp người vì làm người là mặc nhiên chấp nhận KHỔ, và đây cũng là chân lý đầu tiên của Tứ Diệu Đế trong giáo lý nhà Phật: khổ, tập, diệt, đạo. Triết học Phật giáo được trình bày rõ ràng trong hai chữ cõi người vì Đức Phật dạy rằng chúng sinh nếu không tu hành theo đạo giải thoát sẽ tái sinh trong chu kỳ luân hồi của sáu cõi (lục đạo): trời, người, atula, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục, và trong sáu cõi này chỉ có cõi người mới có những thuận duyên để tu hành con đường giải thoát theo Phật.

Trăm năm trong cõi người ta (câu thứ 1, ĐTTT)
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (2)
Trải qua một cuộc bể dâu (3)
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (4)

Hai chữ tài và mệnh đã được Nguyễn Du gán cho sự tương khắc ‘ghét nhau’ đã khiến nhiều người kết luận đơn giản và đã từng giảng dạy là Nguyễn Du chủ trương thuyết ‘tài mệnh tương đố.’ (8) (sách đã dẫn, trang 37-38).

9. Lược khảo về kinh Kim Cương BÁT NHÃ BA LA MẬT (Vajracchedikà-Prajnà-Pàramità Sùtra)

9.1 Thiền Sư Thích Thanh Từ trong ‘Kinh Kim Cang Giảng Giải’ đã giảng như sau:

‘Kinh này do Đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn (Sanskrit), sau truyền sang Trung Hoa được dịch ra chữ Hán. Những nhà phiên dịch Phạn-Hán gồm có:

Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva): ở chùa tại Trường An (chùa Thảo Đường). Vào niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ tư, tức là năm 401 tây lịch, thuộc đời Dao Tần. Ngài dịch tên kinh là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Đây là bản có giá trị nhất, được gọi là định bản, vì sau khi dịch đến giờ đều được mọi người dùng để trì tụng. Bản này nằm trong bộ Tam Bảo tụng hằng ngày.

Ngài Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruchi): đời Ngụy dịch tên kinh cũng đồng với bản trên tức là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, vào khoảng 508 dương lịch.

Ngài Ba la Mật Đa (Paramârtha) (Trung Hoa dịch Chân Đế): dịch vào đời Trần, khoảng giữa thế kỷ thứ sáu đề tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta): đời Tùy, khoảng đầu thế kỷ thứ bảy, dịch tên cũng đồng là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.

Ngài Huyền Trang (Hiouen-Thsang): đời Đường, khoảng giữa thế kỷ thứ bảy, dịch chung trong bộ Đại Bát Nhã, 600 quyển, gồm 16 hội, ‘Kim Cang’ là hội thứ 9, quyển 577 trong bộ Đại Bát Nhã.

Ngài Nghĩa Tịnh: đời Đường, đầu thế kỷ thứ tám, dịch tên là ‘Phật thuyết năng đoạn Bát Nhã Ba La Mật kinh.’ Ngài có đi Ấn Độ mang chữ Phạn về.

Sáu nhà dịch đồng một bàn kinh, nhưng về sau được chú ý nhất là các bản của ngài Cưu Ma La Thập, ngài Huyền Trang và ngài Nghĩa Tịnh.

Kinh Kim Cang rất được các Thiền Sư và Giảng Sư Trung Hoa chú ý sớ giải. Có cả thảy độ 10 nhà:

1. Ngài Trí Khải đời Tùy đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã kinh sớ’ gồm một quyển.

2. Ngài Kiết Tạng đời Tùy đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã sớ’ gồm 4 quyển.

3. Ngài Khuy Cơ đời Đường đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã Tân Thuật’ gồm 2 quyển.

4. Ngài Tông Mật tức ngài Khuê Phong cũng ở đời Đường, đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã cương sớ luận toát yếu’ gồm 2 quyển.

5. Ngài Trí Nghiêm cũng thuộc đời Đường, đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh lược sớ ’ gồm 2 quyển.

6. Ngài Tư Cừ đời Tống đề tên là ‘Kim Cang toát yếu đại san định ký’ gồm 7 quyển.

7. Ngài Tông Lặc và Như Khôi đời Minh, đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật chú giải’ gồm 1 quyển.

8. ‘Kim Cang Chư Gia’ trích lời giảng của các Thiền Sư.

9. Gần đây có ngài Thái Hư, đề tên là ‘Kim Cang Giảng Lục.’

10. Gần đây nhất là cư sĩ Giang Vị Nông.

Về phần dịch Hán-Việt gồm có:

Hòa Thượng Trí Tịnh dịch trong bộ Tam Bảo tụng hằng ngày.

Hòa Thượng Thiện Hoa, dịch trong bộ Phật Học Phổ Thông (tức 12 nấc thang giáo lý).

Thượng Tọa Huệ Hưng dịch quyển ‘Kim Cang Giảng Lục’ của ngài Thái Hư.

Cư sĩ Đồ Nam dịch bản của ông Giang Vị Nông.

Quyển ‘Kim Cang Chư Gia’ cũng được dịch.

NguyenDuvaKinhKimCang3

9.2 Sự Liên Hệ Giữa Kinh Kim Cang và Thiền Tông

Dĩ nhiên ai cũng biết đức Lục Tổ khi gánh củi vào khách điếm bán, thấy có người đang tụng kinh Kim Cang, đức Lục Tổ nghe, tâm liền khai ngộ mới hỏi thăm và được biết là Ngũ Tổ Huỳnh Mai dạy đồ đệ trì tụng Kim Cang, do đó Ngài tìm đến học đạo. Trong Thiền tông, lúc ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, Ngài trao 4 quyển kinh Lăng Già (Lankàvatàra) để lấy đó làm tâm ấn. Đến đời Ngũ Tổ, thấy Kim Cang là quyển kinh tối yếu trong nhà Thiền, Ngài dạy: chẳng những Tăng Ni mà cả cư sĩ đều nên trì tụng kinh Kim Cang để an tâm. Thế nên khi Lục Tổ đến học, vào trước giờ truyền y bát, Ngài đem kinh Kim Cang ra giảng. Khi giảng đến câu ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,’ Lục Tổ hoàn toàn liễu ngộ. Như vậy Lục Tổ ngộ đạo và được truyền y bát làm Tổ cũng nhơn nơi Kim Cang. Do đó chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của kinh Kim Cang đối với Thiền Tông.

Sau này trong các chùa và các thiền viện, bộ kinh này được xem như bộ kinh nhật tụng, và kinh Kim Cang được xem như tâm ấn trong nhà Thiền. Ngái Khuê Phong cũng bảo Kim Cang là bộ kinh quí đáng để an tâm. Học kinh Kim Cang là học thẳng vào phương pháp tu Thiền.’ (10) (sách đã dẫn,trang 1-3). Trong Kinh Kim Cang Giảng Giải, Thiền sư Thích Thanh Từ đã giảng một cách hết sức đơn giản và đưa ra nhiều thí dụ để người đọc hiểu và nắm vững được ý chỉ của kinh. Đến cuối sách Ngài cũng tóm tắt như sau:

TOÁT YẾU KINH KIM CANG

1. Lấy Trí Tuệ Bát Nhã quán xét tất cả pháp hữu vi đều không có tự tánh,vô thường sinh diệt.

2. Nhờ quán xét vững chắc nên hàng phục tâm dễ dàng, đưa các vọng tưởng vào Vô Dư Niết Bàn.

3. Vì buông xả các pháp và vọng tưởng nên tâm được an trụ.

4, Tâm an trụ không dính mắc sáu trần nên Như Như bất động.

5. Muốn trụ tâm phải buông xả đừng dính sáu trần (bố thí không chấp tướng).

6. Muốn hàng phục tâm phải đưa vọng niệm vào chỗ Vô Sanh.

(2) (sách đã dẫn, trang 162).

9.3 Giáo Sư F. Max Muller đã dịch kinh Kim Cương (với phần giới thiệu viết tại đại học Oxford ngày 26 tháng Giêng 1894) trực tiếp từ chữ Phạn (Sanskrit) sang Anh ngữ với tên ‘The Vajracchedika or Diamond Cutter’ trong quyển ‘Buddhist Mahàyàna Texts,’trang 109-144, (quyển thứ 49 trong bộ sách ‘Sacred Books of the East Series’ gồm 50 quyển), do Oxford University Press in năm 1894, và nhà xuất bản Motilal Banarsidass ở Ấn Độ tái bản vào những năm 1965, 1968, 1972, 1978. Bản dịch của Giáo Sư F. Max Muller không có phần giảng giải nên đọc khó hiểu.

Ông Lu K’uan Yu (Charles Luk) đã dịch sang Anh ngữ bản Kinh Kim Cương và phần giảng giải viết bằng chữ Hán của Thiền Sư Te Ch’ing (hiệu là Han Shan, Hám Sơn) viết vào năm 1616 tại Chùa Lục Tổ Huệ Năng ở Tào Khê, đời nhà Minh, Trung Hoa.

Thiền Sư Hám Sơn đã viết phần giảng giải kinh Kim Cương sau khi Ngài đã chứng ngộ và theo Ngài kinh chỉ nên chia ra làm hai phần: phần một để phá bỏ những kiến chấp còn thô sơ của những ai học Phật, phần hai để xóa bỏ những kiến chấp vi tế hơn mà những người học Phật vẫn còn giữ lấy nhưng không nhận biết.

Bản dịch Anh ngữ của Ông Lu K’uan Yu (1959) là ‘The Diamond Cutter of Doubts,’ a Commentary on the Diamond Sùtra, Vajracchedikà-Prajnà-Pàramità Sùtra, by Ch’an Master Han Shan (from the Chin Kang Chueh I) được đăng trong bộ sách ‘Ch’an and Zen Teaching’ First Series (và Second Series, Third Series) do nhà xuất bản Century Hutchinson Australia Pty Ltd., 1987, trang 147-206.

Nhận thấy những lời giảng giải của Thiền Sư Te Ch’ing (hiệu là Han Shan, ‘Silly Mountain,’ Hám Sơn, 1546-1623) hết sức lợi ích cho những ai muốn hiểu rõ thêm về kinh Kim Cương nên trong tương lai chúng tôi nguyện sẽ cố gắng chuyển bản Anh ngữ này sang Việt ngữ để trình bày cùng đồng hương Việt Nam có thêm tài liệu để tham khảo.

Duyên lành bài viết vừa xong,
Quà Xuân Kỷ Mão, tỏ lòng tri âm.

Phan Đông Bích

(Phan Quang Việt)

——————————————————————————–

[Khởi đầu viết đêm 30 tháng 12, 1998, viết xong bản thảo ngày 2 tháng 2, 1999,
những ngày cuối năm trước Tết Nguyên Đán Kỷ Mão 1999,
Sydney, Úc Đại Lợi, Nam Bán Cầu].

——————————————————————————–

TÀI LIỆU HỌC HỎI VÀ THAM KHẢO

Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh, Thích Minh Trực dịch, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, Phật Lịch 2531, Hoa Kỳ, 1987.

1. Vũ Khắc Khoan, Đọc Kinh, Bà Vũ Khắc Khoan tại Hoa Kỳ và An Tiêm xuất bản, 1988.

2. Giáo Sư Hồ Đình Chữ, Trích giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du, Việt Luận xuất bản, Sydney, 1996. Sách có in bài khảo cứu, trang 305, ‘Lời Bạt: Đầu năm Quý Dậu 1813 Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc’ của Hương Giang Thái Văn Kiểm, Paris Chiêu Anh Các, Xuân Ất Hợi 1995.

3. Thiều Chửu dịch, Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức, xuất bản năm 1984.

4. Nguyễn Đăng Thục, Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, Xuân Thu xuất bản, Hoa Kỳ.

5. Vũ Thế Ngọc dịch, Bồ Đề Đạt Ma Tuyệt Quán Luận, EastWest Institute, Hoa Kỳ, 1983.

6. Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch, Nguồn Thiền, nguyên tác ‘Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự ‘, Thiền Sư Tông Mật, Phật Lịch 2512 (1969), Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc.

7. Mai Hiền Lương, Tiếng Lòng của Nguyễn Du, Nhân Duyên ấn hành 1997, Gia Nã Đại.

8. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (quyển 2), Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn 1971, trang 140-141.

9. Thiền Sư Thích Thanh Từ, Kinh Kim Cang Giảng Giải, Phước Huệ Đạo Tràng, tái bản và ấn tống, Úc Đại Lợi, Phật Lịch 2531, 1987.

Phụ chú

Nhà cách mạng Sào Nam Phan Bội Châu cũng đã từng đọc kinh Kim Cương: Nhà cách mạng Sào Nam Phan Bội Châu cũng đã từng đọc và nghiên cứu kinh Kim Cương vì Cụ Phan Bội Châu khi viết bộ sách Chu Dịch, Cụ đã viết về quẻ Phong Địa Quán như sau:

‘Quán, quán nhi bất tiến, hữu phu, ngung nhược, hạ quan nhi hóa dã.

‘Theo như Soán từ, thời chỉ dùng một cách chí thành, nghiêm kính, khiến cho kẻ dưới dòm ‘mình mà cảm hóa vậy. ‘Phụ Chú – Ý nghĩa Soán từ đây, tượng như câu: thần võ nhi bất sát. Nghĩa là: dùng uy võ ‘bằng một cách thần diệu, mà không cần phải giết người. ‘Tòng lai, việc võ tất có giết người, võ mà không giết người mới là thần võ. Tế tất có tiến, tế ‘không dùng đồ tiến, mới là ý nghĩa thờ thần rất hay.

‘Kinh Phật có câu: ‘Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất ‘đắc kiến Như Lai.’ Nghĩa là: Phật lý chỉ ở bản tâm, vô thanh vô sắc, nếu ai lấy thanh âm ‘mà ‘cầu ta ở thanh âm, lấy hình sắc mà cầu ta ở hình sắc, người ấy rặt là làm đạo tà, không được ‘thấy Đức Phật Như Lai. ‘Câu kinh ấy ý tứ cũng như lời Soán đây. Lấy mâm cỗ mà cầu thần, có khác gì lấy thanh sắc ‘mà cầu Phật.’ (Sào Nam Phan Bội Châu, Chu Dịch, quyển thượng kinh, quẻ Phong Địa Quán, trang 414, nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1969).

Bốn câu kệ mà Cụ Phan Bội Châu trích dẫn ở trên lấy từ kinh Kim Cương, đoạn 26,

‘Pháp Thân phi tướng,’ Pháp thân chẳng phải là tướng. (10) (sách đã dẫn, trang 134).

Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai

(Nếu do sắc thấy ta
Do âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.)